![]() |
Người Anh Cả Tiểu Đoàn 52 Biệt Động Quân "SẤM SÉT MIỀN ĐÔNG"
1 Attachment(s)
Các chiến si TĐ52BĐQ Hàng năm, cứ đến khoảng tháng 4, tháng 5, tôi đều nhớ đến những kỷ niệm đau buồn trong cuộc đời đă qua của ḿnh – Ngoài nỗi buồn đau thương nước mất nhà tan, một kỷ niệm buồn nữa đă in sâu trong tiềm thức tôi, mà tôi không bao giờ có thể quên được, đó là cái chết của con "mănh hổ đầu đàn" trong thập niên 1960 của TĐ 52/BĐQ, người mà tên tuổi đă gần như gắn liền với danh hiệu "Sấm Sét miền Đông": Thiếu Tá Nguyễn Hiệp. Tôi là người mang nhiều cơ duyên với Thiếu Tá Hiệp. – Lần đầu tiên khi ra trường được phục vụ tại TĐ 52, dưới sự chỉ huy của Anh – Và cũng lần cuối cùng chính tôi vuốt mắt tiễn Anh về bên kia thế giới, trong đơn lạnh, nghẹn ngào, tức tưởi tại khám Chí Hoà, sau ngày đen tối nhất của lịch sử Việt Nam, ngày 30-4-1975. Anh đă bị một kẻ vô danh tiểu tốt, thiếu ư thức, thiếu giáo dục và căn bản đạo đức, cho nên chỉ v́ chút hiềm khích cá nhân, lợi dụng lúc anh đang tắm, xát xà bông đầy người, hắn đă dùng một độc chiêu của vơ thuật Judo để hạ anh ngă đập đầu trên nền xi măng, bên miệng giếng, trong sân khám đường Chí Hoà, khoảng tháng 5-1975, khiến anh phải bỏ mạng. Tệ hại hơn nữa là trong khoảng thời gian Anh hấp hối 4, 5 tiếng đồng hồ, bọn cai tù VC, đă không đưa Anh đi cấp cứu, hay chữa trị cho Anh tại chỗ, mà chúng đă bỏ Anh nằm quằn quại, chịu đau đớn và rồi lặng lẽ trút hơi thở cuối cùng, trong ṿng tay của tôi, sự uất ức, căm hờn khiến Anh, dù đă tắt hơi, mà mắt vẫn mở trừng trừng trong ánh sáng mờ nhạt của pḥng giam. Cơ Duyên Gặp Gở Lần đầu tôi gặp Anh là vào khoảng tháng 6-1968, sau khi măn khóa 26 Trường Bộ Binh Thủ Đức – Tất cả các tân Sĩ Quan chọn binh chủng LLĐB, trong đó có tôi, đều được tự động đưa qua binh chủng BĐQ, v́ LLĐB đă nhận đủ. V́ yêu màu áo hoa rừng, thích phiêu lưu mạo hiểm, nên tôi đă chấp nhận gia nhập BĐQ. – Vậy là khoá tôi gần 100 tân sĩ quan bổ sung cho BĐQ, chúng tôi được xe GMC đón về BCH ở Sàig̣n, tại đây chúng tôi bốc thăm về các Liên Đoàn BĐQ trên 4 Vùng Chiến Thuật – Tôi được nằm trong số 20 người về LĐ3, vùng 3 Chiến Thuật – V́ nhu cầu chiến trường, chúng tôi được đưa ngay về BCH/LĐ3 ở Biên Hoà, lại một lần nữa bốc thăm về các Tiểu Đoàn của LĐ – Tôi và 4 người nữa bốc trúng thăm về TĐ 52/BĐQ, tôi c̣n nhớ tên các anh Quư, Nhung, Nam (một người nữa tôi không nhớ v́ anh chỉ ở TĐ vài tháng rồi chuyển về Không Quân). – Tiểu Đoàn cũng đang thiếu sĩ quan Trung Đội Trưởng, nên chúng tôi lại được xe Jeep của TĐ đưa ngay về tiền cứ của TĐ ở đồi Tân Phong, cách thị xă Xuân Lộc, Long Khánh khoảng hơn 5 cây số, tại đây, TĐ đang tăng phái cho Sư Đoàn 10/BB (tiền thân SĐ 18/BB) để hành quân trong vùng Rừng Lá. Tại BCH/TĐ, trên đỉnh đồi Tân Phong, trong pḥng thuyết tŕrnh của BCH/TĐ, chúng tôi hồi hộp ngồi chờ Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng về để phân phối chúng tôi đi các Đại Đội. Trong khi chờ đợi, chúng tôi được tiếp đón bởi một vị Thiếu úy, tự giới thiệu tốt nghiệp khóa 22 Đà Lạt, tên Nguyễn Ngọc Khoan. Anh cũng mới về TĐ độ hơn 3 tháng, hiện là Phụ tá Ban 3. Anh giới thiệu sơ qua cho chúng tôi biết về đơn vị và các cấp chỉ huy của TĐ và ĐĐ như sau: – Tiểu Đoàn Trưởng Thiếu Tá Nguyễn Hiệp. – Tiểu Đoàn Phó Đại úy Nguyễn Công Thông. – Đại Đội Trưởng ĐĐ1 Đại úy Nguyễn Văn Niên. – Đại Đội Trưởng ĐĐ2 Đại úy Hồng Khắc Trân. – Đại Đội Trưởng ĐĐ3 Đại úy Nguyễn Ngọc Quang. – Đại Đội Trưởng ĐĐ4 Đại úy Trần Thanh Thuận. Anh c̣n cho biết thêm, sau khi hành quân xong, toàn bộ TĐ sẽ trở về đóng quân tại đây và tiền cứ các ĐĐ cũng đóng trên các đồi nhỏ trong đồi này. Khoảng xế chiều, Thiếu Tá Hiệp họp trên Sư đoàn trở về. Ông vui vẻ bắt tay chúng tôi với lời chào đón thân t́nh, nhưng nét mặt ông rất nghiêm nghị, ông chỉ định tôi về ĐĐ 4, Ch/u Nhung về ĐĐ 1, Ch/u Nam về ĐĐ 2, Ch/u Quư về ĐĐ 3, c̣n một người cao lớn, bự con, ở lại làm việc tại BCH/TĐ, thuộc Ban 2, ngày ngày ngồi xe Kiểm Soát BĐQ, tuần tiễu ngoài thị xă Xuân Lộc, kiểm soát các quân nhân thuộc TĐ, tránh phiền hà cho dân chúng và đơn vị bạn. Tôi được đưa về ĐĐ4 ngay. Đại úy Thuận chỉ định tôi làm Trung đội trưởng Trung đội 1. Trung đội phó là một Thượng sĩ và 3 Tiểu đội trưởng là ba Trung sĩ, tất cả 4 Hạ sĩ quan này đều lớn tuổi, rất dày dạn gió sương và đầy kinh nghiệm chiến trường. Trung đội khoảng trên dưới 25 người, đa số là lớp lính cũ, thâm niên tác chiến, rất ít tân binh, mới nhất chỉ có tôi là tân trung đội trưởng của họ mà thôi. Đặc điểm của TĐ này là thuộc cấp không bao giờ gọi cấp bậc Chuẩn úy, mà họ toàn gọi là Thiếu úy. Tôi có thắc mắc, họ giải thích chung chung là Thiếu úy dễ gọi hơn, vả lại họ đă quen từ xưa rồi, Thiếu úy? Ráng chịu vậy. Chẳng hiểu hên hay xui, tôi về Trung đội 1 là Trung đội cứng nhất của ĐĐ, nên khi hành quân, TĐ luôn đi đầu, nhất là thời gian này, Tiểu đoàn đang tăng phái cho Sư đoàn 10/BB. Tiểu đoàn luôn được tung vào hành quân vùng Rừng Lá, Vơ Su, Vơ Đắc, cánh quân Đại Đội 4 luôn luôn do Trung đội 1 chúng tôi làm mũi nhọn xung kích và thường được ĐĐ cho hành quân đơn lẻ, ở lại phục kích đêm trong vùng hành quân. Cứ thế, trong suốt thời gian tăng phái, cả Tiểu đoàn hành quân liên miên, hết hành quân lại ứng chiến 100% ở sân bay, để chờ đổ quân tiếp viện. Tiểu đoàn chúng tôi đă hành quân khắp các địa danh nổi tiếng vùng Long Khánh như núi Chứa Chan, La Ngà, Định Quán, Rừng Lá, Vơ Su, Vơ Đắc v.. v… Sau khi hành quân vùng La Ngà, hơn nửa Tiểu đoàn bị sốt rét nặng, hàng ngày đều có binh sĩ tử vong v́ bịnh sốt rét, nên toàn bộ TĐ được rút về băi biển Hàm Tân để nghỉ dưỡng quân và trị bệnh sốt rét. Trong số sĩ quan bị sốt rét, có cả tôi, do đó trung đội tôi hoàn toàn được nghỉ ngơi tại băi biển này một cách thoải mái trong suốt 3 tuần lễ Tiểu đoàn đóng quân tại đây. Sau khi dưỡng quân, tái bổ sung và trang bị, toàn thể Tiểu đoàn được bốc bằng trực thăng Chinook đổ vào căn cứ Sóc Con Trăng thay thế cho Tiểu đoàn 36/BĐQ. Trong khu vực trách nhiệm của ĐĐ 4, Trung đội 1 của tôi đă được Đại Đội Trưởng chiếu cố nhiều nhất, Trung đội đă được tung ra mỗi ngày một xa căn cứ hơn – Mỗi lần chạm địch đều gặt hái kết quả, mà tổn thất về ḿnh không đáng kể, nên tôi được tiếng là không sát quân. Tuy nhiên Thiếu Tá Hiệp là một vị chỉ huy rất kỹ, ông không cho bung quân quá xa mà phải luôn luôn trong tầm kiểm soát, yểm trợ của Pháo Binh 105 ly và trên trời luôn có L.19 hoặc trực thăng chỉ huy bao vùng, để sẵn sàng yểm trợ khi có chạm địch mạnh. Tôi c̣n nhớ rơ một buổi trưa nắng đẹp, Thiếu Tá Hiệp bay trên trực thăng chỉ huy kiểm soát các ĐĐ trực thuộc. Khoảng cuối tháng 12-1968 – Các ĐĐ tung các Trung đội hành quân lục soát sâu vào trong rừng, quanh căn cứ độ khoảng 1 tới 3 cây số từ sáng sớm và cho đến giờ này, trên vùng căn cứ các Trung đội đă phải tiến chiếm và lục soát các mục tiêu sâu ở trong rừng rồi, do đó khi Tiểu đoàn trưởng trên trực thăng, muốn kiểm soát cánh quân phía dưới, chỉ cần lệnh cho họ ném khói màu là biết các trung đội phía dưới có thi hành đúng lệnh hành quân hay không. Sau chuyến bay kiểm soát này, tôi đă được ông khen ngợi là có tinh thần trách nhiệm, thi hành lệnh nghiêm chỉnh, nên đă đạt nhiều thành tích cho ĐĐ. Ngược lại, ông đă phạt nặng Chuẩn úy Nhung của ĐĐ 1, v́ anh đă nằm một chỗ mà báo cáo chứ không cho Trung đội tiến lên. Ông đưa anh ra toà án quân sự với tội danh căi lệnh thượng cấp tại mặt trận, nên anh này đă bị giáng cấp và thuyên chuyển khỏi Tiểu đoàn. Riêng tôi, đây chính là cơ duyên đă đưa tôi đến gần ông hơn, qua chuyến bay kiểm soát hành quân này của ông. Đó là do nhu cầu, v́ Tiểu đoàn tăng phái cho Lữ đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ, Tiểu đoàn cần một sĩ quan có khả năng thông thạo Anh ngữ. Qua phần lư lịch của tôi, ông đă duyệt qua, tôi đă có bằng Anh ngữ, đă làm cho sở Mỹ 4 năm trước khi nhập ngũ, nên ông ra lệnh rút tôi về nhận nhiệm vụ khác. Tôi vào tŕnh diện Thiếu Tá Hiệp ngay chiều hôm đó. Ông vui vẻ, thân thiện bắt tay tôi, nhưng nét mặt rất nghiêm nghị, ông nói: “Moa rất thích những sĩ quan trẻ làm việc có trách nhiệm cao như toa”. Ông lệnh cho tôi làm việc ở Bộ chỉ huy Tiểu đoàn và sáng sớm hôm sau, ông sẽ đưa tôi ra căn cứ Tống Lê Chân bằng trực thăng. Ở đây, tôi sẽ là sĩ quan chỉ huy tiền trạm của TĐ, vừa là Sĩ quan liên lạc của TĐ bên cạnh tiền cứ của Lữ đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ có trách nhiệm đại diện TĐ nhận lănh tiếp liệu, nhu yếu phẩm cho TĐ, do Lữ đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ cung cấp. Trong thời gian làm việc ở Tống Lê Chân, tôi thi hành nhiệm vụ một cách nghiêm chỉnh và đạt kết quả tốt cho Tiểu đoàn, v́ với sự ngoại giao khéo léo của tôi, nguồn tiếp tế cho TĐ luôn được đầy đủ, c̣n có phần dư thừa để dự trữ cho TĐ – Tôi cũng c̣n linh động dùng những phần ăn do Quân đội Mỹ cung cấp, đổi lấy thực phẩm tươi cho TĐ, v́ thế anh em binh sĩ không cảm thấy khó chịu khi trú đóng lâu dài ở căn cứ trong rừng sâu. Sau gần 2 tháng đảm trách nhiệm vụ này, Thiếu Tá Hiệp gọi tôi vào tŕnh diện, ông giao cho tôi nhiệm vụ khác, đó là phụ tá Ban 3, làm việc cùng Đại úy Niên, tân Tiểu đoàn Phó, bên BCH nhẹ, c̣n Đại úy Trân là Trưởng Ban 3 của tôi làm việc bên BCH Tiểu đoàn. Kể từ ngày đó, tôi chính thức làm nhiệm vụ của một sĩ quan Phụ tá Ban 3, tôi luôn túc trực trong pḥng hành quân, để theo dơi diễn tiến của các cánh quân, để cung cấp, yểm trợ Phi Pháo theo yêu cầu khi cần. Qua đầu tháng 1-1969, Tiểu đoàn được điều động về hành quân bảo vệ ven đô Sàig̣n, TĐ vẫn hành quân phối hợp với Lữ đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ. Tiểu đoàn được trách nhiệm 2 vùng: – BCH Tiểu đoàn và 2 ĐĐ trách nhiệm vùng xa lộ Biên Hoà – Sàig̣n, từ phía Đông xi măng Hà Tiên chạy dài xuống ngă ba Cát Lái, BCH/TĐ đóng tại bên này cầu xa lộ – BCH nhẹ do Đại úy Niên chỉ huy cùng 2 ĐĐ chịu trách nhiệm vùng B́nh Triệu, dọc theo đường trong đi Thủ Đức, tới cầu B́nh Lợi về hướng Bắc. Thời gian này, Thiếu Tá Hiệp được thuyên chuyển về phục vụ ngành Cảnh Sát Quốc Gia. Trước khi rời TĐ, ông cho tôi biết là ông đă đề cử tôi đi học khóa Tác chiến trong rừng bên Mă Lai, vào tháng 10-1969. Tôi c̣n nhớ rơ câu nói của ông khi gặp tôi: "Moa đề cử toa v́ moa tin tưởng với khả năng Anh ngữ của toa, sẽ không làm mất mặt binh chủng BĐQ của ḿnh khi du học bên Mă Lai, vả lại với sự lanh lẹ, tháo vát, cộng với tinh thần trách nhiệm cao, toa rất xứng đáng được moa đề cử đi học khóa này". Câu nói này đă làm tôi nhớ măi trong đời và cũng chính câu nói tin tưởng khích lệ đó. Tôi đă không hổ danh là một BĐQ khi đi du học khóa 52 Tác Chiến trong rừng ở Mă Lai, v́ chính tôi lại được chọn làm sĩ quan thông dịch trừ bị cho khóa, mỗi khi sĩ quan thông dịch bịnh hay vắng mặt. Trong khi thi hành toán thực tập hành quân, do tôi làm trưởng toán, chúng tôi đều dẫn đầu lớp về thực tập hành quân. Điều này đă mang lại kết quả vẻ vang, đại diện cho binh chủng du học nước ngoài – BCH/BĐQ Trung Ương đă được thông báo kết quả cụ thể này của Tổng Cục Quân Huấn/Bộ TTM, khi chúng tôi măn khóa trở về đơn vị. Tháng 12-1969, tôi du học Mă Lai trở về tŕnh diện Liên Đoàn th́ được Trung Tá Liên Đoàn Trưởng giữ lại làm việc tại BCH/LĐ, với chức vụ phụ tá Ban 3, đặc trách sĩ quan Không trợ Liên đoàn. Trưởng Ban 3 là Thiếu Tá Ngô Văn Mai, Liên đoàn Trưởng là Trung Tá Phạm Văn Phúc. – Hiện LĐ đang đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô, với nhiệm vụ phối hợp hành quân cùng Lữ Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ. – Có lẽ v́ vậy mà Thiếu Tá Mai rất cần một phụ tá như tôi, mỗi khi giao dịch hay hành quân chung với đơn vị bạn, nên xin với Trung Tá LĐT cho tôi về làm việc với ông chăng. Tôi phục vụ tại BCH/Liên Đoàn với nhiệm vụ một sĩ quan tham mưu hành quân, qua hai thời Liên Đoàn Trưởng là Đại Tá Phạm Văn Phúc và Đại Tá Nguyễn Văn Biết. – Tôi đă cùng Liên Đoàn tham dự tất cả các cuộc hành quân lớn nhỏ, trong nội địa, cũng như ngoại biên, cho đến ngày đơn vị hoàn toàn tan ră 30-4-1975, ngày đau thương nhất của Quân Lực VNCH, mà mỗi quân nhân chúng ta không bao giờ quên được. Tái Ngộ Trong Nghiệt Ngă Sau ngày 30-4-1975, miền Nam bị VC chiếm đóng, chúng ra thông báo cho các sĩ quan cấp Tướng, Tá tŕnh diện đi “học tập cải tạo” trong tháng 5, sĩ quan cấp úy tŕnh diện trong tháng 6. Trong khoảng thời gian chờ đợi đi tŕnh diện, tôi thường hay lên thăm anh Biết ở Thủ Đức. Chúng tôi thường đàm luận về t́nh h́nh, tiên đoán tương lai, số phận của chính ḿnh và tự hỏi không biết cuộc đời sẽ ra sao, có thể chung sống với bọn họ được hay không – Sẽ được yên lành trong nghèo đói, hay sẽ bị khó dễ đủ điều, thậm chí c̣n có thể bị thủ tiêu nữa – Chẳng có câu giải đáp nào thoả đáng, buồn quá, chúng tôi chỉ biết uống rượu giải sầu – Nhưng rồi càng uống càng buồn, nhất là anh Biết, thường nhắc với tôi đến những anh em đồng đội, thuộc cấp bị kẹt lại ngoài Phan Rang, mà không biết số phận ra sao như Đại úy Tài, Bác sĩ Đức của BCH/Liên Đoàn, Thiếu Tá Minh, Thiếu Tá Tú Tiểu đoàn Trưởng và các Hạ sĩ quan ông từng biết tên, nhớ mặt. Ông nhắc đến từng người với nét mặt lo buồn, thương tiếc. Đến ngày sĩ quan cấp Tá đi tŕnh diện, chị Biết có nói với anh Biết nhờ tôi dùng xe Honda của nhà, chở anh về Sàig̣n tŕnh diện, xong rồi đem xe về nhà giúp chị, đồng thời cho chị biết tin tức cuả anh luôn thể. Tối đó, tôi ngủ tại nhà anh Biết để sáng hôm sau đưa anh về Sàig̣n tŕnh diện như chị dự định – Khi anh Biết tŕnh diện và được họ tiếp nhận, tôi đem xe về Thủ Đức trả lại cho gia đ́nh anh Biết và để thông báo tin tức cho chị. – Nhưng khi vừa dừng xe trước nhà anh, th́nh ĺnh có một toán du kích địa phương, khoảng 10 tên, chỉ huy bởi một tên mặc đồ bộ đội, hắn dùng K.54 chĩa vào đầu tôi, các tên kia cầm AK.47 bao quanh tôi với vẻ mặt rất nghiêm trọng và đầy sát khí. Chúng bắt tôi dắt xe theo chúng, tôi phải dắt xe đi bộ đến quận Thủ Đức, đến nơi, chúng dắt xe đi mất, c̣n tên mang K.54 bảo tôi theo hắn vào pḥng làm việc. Tôi c̣n nhớ rơ trên đường đi bộ đến quận, lâu lâu liếc lại phía sau, tôi bắt gặp cô Hồng, em vợ anh Biết, đă âm thầm theo dơi xem chúng dẫn tôi đi đâu. Khi tôi đưọc dẫn vào quận Thủ Đức th́ không thấy cô nữa, tôi đoán có lẽ cô trở về cho chị Biết hay tin. Trong một căn pḥng của quận Thủ Đức, tôi bị một tên mặc thường phục, giọng người Nam hỏi cung tôi – Tôi nghĩ tên này là một tên cán bộ nằm vùng ở đây lâu lắm rồi, nay ra mặt để nhận diện và bắt tất cả các sĩ quan trong vùng chưa kịp đi tŕnh diện. Đầu tiên hắn hỏi tôi dồn dập: – Là sĩ quan cấp Tá sao anh không đi tŕnh diện để “học tập”? – Anh đưa Đại Tá Biết đi đâu? – Anh đưa anh ta đi dấu ở đâu? – Trở về nhà anh ta làm ǵ? Không hiểu sao lúc này tôi lại b́nh tĩnh lạ thường và từ tốn trả lời hắn: – Tôi là sĩ quan cấp Úy, không phải cấp Tá – Tôi chở anh Biết về Sàig̣n tŕnh diện đi “học tập” rồi. C̣n tôi đem xe về nhà để trả cho chị ấy, có vậy thôi! Hắn không chịu, nhất định kết tội tôi là sĩ quan cấp Tá, trốn tŕnh diện, với lập luận rất ư khôi hài của hắn. Tôi ghi ra đây để quư vị thấy sự tuyên truyền nhồi sọ của bọn lănh đạo cũng như sự ngu xuẩn của tầng lớp cán bộ Việt cộng: – Anh nói là sĩ quan cấp Úy, tôi không tin, v́ quân đội “Nguỵ”, sĩ quan cấp Tá không chơi với sĩ quan cấp Úy. Chúng tôi biết anh rất thân thiết với anh Biết, v́ từ trước “giải phóng”, đến sau này, chúng tôi đă theo dơi chặt chẽ nhà anh Biết, nên thấy anh thường xuyên ra vào gia đ́nh này. Anh không phải sĩ quan cấp Tá, sao lại ra vào thân thiết, dễ dàng như vậy? Tôi nghĩ ngay, bọn chúng đă để ư theo dơi nhà anh Biết từ lâu và có lẽ chúng cũng biết tôi chỉ là cấp Úy, nhưng cố t́nh bắt tôi để nuốt chiếc xe Honda của anh chị Biết, v́ cho dù tôi có đưa giấy tờ xe ra, th́ giấy đó cũng không phải tên tôi. Thời điểm đó không có một chút ǵ được gọi là luật lệ cả. Hắn bắt tôi kư vào biên bản nhận tội. Tôi nhất định không kư. Sau cùng tên thẩm vấn nói: – Anh ngoan cố, không nhận tội, tôi tạm giữ anh lại đây để điều tra, để biết thêm đồng phạm của anh. – Tôi đă nói, tôi chỉ là sĩ quan cấp Úy, chưa đến ngày tŕnh diện, sao các anh bắt tôi, hăy thả tôi về, tới ngày tŕnh diện sĩ quan cấp Úy, tôi sẽ đi tŕnh diện. – Các anh coi thường chúng tôi quá, “cách mạng” chúng tôi biết hết mọi điều các anh làm. Đoán biết mọi điều các anh đang nghĩ và tính toán, chúng tôi c̣n biết một số các anh tính trốn “tŕnh diện học tập”, để sau này kết bè, kết đảng chống phá “cách mạng” chứ ǵ. – Các anh có bằng chứng ǵ cụ thể chứng minh, nếu không, xin anh thả tôi về. – Tôi tạm giữ anh lại đây để cấp trên điều tra và sẽ cho anh về khi chúng tôi có bằng chứng cụ thể. Nói xong, hắn bảo mấy tên du kích dẫn tôi về pḥng tạm giam. Nơi tạm giam là một căn pḥng mà cửa sắt bít kín hết, chỉ có một cửa sổ nhỏ bằng lưới độ 2 tấc vuông, trong pḥng chỉ có 1 bóng đèn yếu ớt, ánh sáng mờ mờ, mới bị đẩy vào, tôi chưa nh́n được chung quanh và nhận định ra vị trí căn pḥng. Buồn chán, tôi ngồi phệt xuống ngay tại chỗ, nhắm mắt lại định thần. Suốt chiều đó, chúng dẫn tôi lên hỏi cung mấy lần nữa, nhưng tôi đều cương quyết không nhận tội, sau cùng tên cán bộ tuyên bố: – Chúng tôi chính thức bắt giữ anh, tạm giam anh ở đây. Tôi cũng cho anh biết, ngoài anh ra, chúng tôi đă bắt nhiều tên sĩ quan ngoan cố như anh, bọn họ cũng là sĩ quan cấp Tá mà không chịu đi tŕnh diện học tập, các anh đă bỏ mất cơ hội để trở thành công dân chân chính của chế độ mới rồi đó. Câu nói của tên cán bộ VC đúng một phần trên, đó là chúng đă bắt giam nhiều người rồi, v́ trong căn pḥng giam nhỏ xíu này, đă có hơn 40 người, chỉ đủ chỗ ngồi sát vào nhau. Tối hôm đó, chúng tôi nhịn đói nằm trong pḥng giam v́ tôi hỏi những người chung quanh đều bị bắt vào buổi sáng, mà đến giờ đó chưa có ǵ ăn cả – Sự lo lắng, mệt mỏi, sợ hăi đă làm mọi người quên cả đói, hoặc có nhớ đến, cũng không dám kêu, v́ không biết chúng sẽ đối xử với ḿnh như thế nào! Sáng sớm hôm sau, chúng lại dắt tôi ra pḥng làm việc, tên cán bộ hỏi cung tôi chiều qua cho biết, hắn sẽ giải tôi lên cấp cao hơn ở Sàig̣n giải quyết Ngoài sân đă đậu sẵn một xe GMC, trên xe có khoảng 10 người, mặt mũi người nào cũng xanh xao, u sầu. Tên du kích gác trên xe kéo tôi lên, tôi vừa ngồi xuống th́ chúng dẫn thêm một người nữa ra xe. Tôi nh́n anh, rất đỗi ngạc nhiên, ḷng c̣n đang bàng hoàng, không thể ngờ được lại chính là anh. Vẻ mặt bơ phờ như mất ngủ, dáng đi khập khễnh, khó khăn. Ôi! gặp anh trong t́nh huống nghiệt ngă này thật bất nhẫn, tôi than “trời” nho nhỏ, rồi lầm thầm gọi tên anh, trong khi tên du kích đang kéo anh lên xe một cách khó khăn, phải có một tên dưới đất đẩy phụ anh mới lên được. Phải! người khiến tôi kinh ngạc khi gặp, vừa được đẩy lên xe chính là anh Nguyễn Hiệp, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ52/BĐQ anh dũng ngày nào, vị TĐT đầu tiên của tôi, đă dẫn dắt, chỉ bảo cho tôi từ những ngày đầu tiên khi mới ra trường. Tôi e dè vừa nh́n chừng tên du kích, vừa hỏi nhỏ anh, sao anh lại ở đây? – Anh cho biết là anh bị chúng đến nhà bắt đi, với kiểu lừa đảo rất lịch sự là “mời đến cơ quan dể làm việc”, chỉ sau giờ ấn định ngày đầu cho sĩ quan cấp Tá “tŕnh diện học tập”. Tại quận, anh cũng bị chúng khép vào tội sĩ quan cấp Tá không chịu đi Tŕnh diện, chúng giữ anh từ trưa qua, mặc dầu anh đă cho chúng biết anh đă giải ngũ v́ bị thương tật, nhưng chúng vẫn không tin, vẫn giữ anh lại đến sáng nay giải về Sàig̣n luôn. Sau khi nói chuyện với anh xong, chúng tôi quay qua các người khác hỏi thăm, th́ được biết, họ cũng là sĩ quan, bị các chốt kiểm soát chặn bắt giải về Thủ Đức và cũng bị khép vào tội như chúng tôi vậy. Xe đến Sàig̣n và chạy thẳng vào khám Chí Hoà. Chúng tôi bị đưa lên lầu 3, dẫy AH, pḥng số 1 với lời tuyên bố là chúng tôi bị tạm giam ở đây, để điều tra lư lịch, tên cán bộ cho chúng tôi vào pḥng, khóa cửa lại rồi lặng lẽ bỏ đi, lúc đó độ hơn 10 giờ sáng. Pḥng giam ở Chí Hoà tương đối thoáng hơn ở Thủ Đức, trong pḥng đă có săn một số người, cộng chung toán chúng tôi nữa là vào khoảng 35 người, hỏi ra được biết gồm đủ mọi thành phần, Quân đội, Hành chánh, Sĩ quan, Hạ sĩ quan v..v.. đủ cả. Tới trưa, một tên cán bộ cùng hai tên hộ vệ vào pḥng tôi. Tên cán bộ chỉ định tôi làm trưởng pḥng, hắn bảo tôi ngày hai bữa ăn, trưa và chiều, cắt cử 3 người cùng tôi đi theo một bộ đội, xuống nhà bếp lănh cơm và thức ăn về cho pḥng. Chúng tôi được phát cà mên, ca uống nước, đũa, muỗng để ăn cơm, đồng thời hắn đưa cho tôi một cây viết, một tờ giấy, bảo tôi lập danh sách, theo thứ tự chỗ chiếu nằm trong pḥng của từng người và nộp lại cho hắn khi lănh cơm. V́ làm công việc này, tôi mới biết trong pḥng có một bác sĩ và một nhà tu, anh này khai là Tuyên úy Phật Giáo, c̣n rất trẻ, đầu không cạo trọc mà chỉ húi cua thôi. Tôi c̣n nhớ rơ vị bác sĩ tên là Điền, ông là Bác sĩ Giải phẫu tài danh của bệnh viện Dă Chiến Cần Thơ, trên đường từ Cần Thơ về Sàig̣n th́ bị chốt chặn bắt giữ. Sau này, Bác sĩ Điền cũng bị chuyển ra Bắc với tôi và cùng ở chung trại Vĩnh Quang. Riêng với anh thanh niên trẻ, người xưng là Tuyên úy Phật Giáo, là đồ đệ của thày Thích Tâm Giác, tên anh này tôi đă hoàn toàn quên hẳn. Tôi cố, cố lắm, nhưng không tài nào nhớ nổi, mặc dù nhắc đến cái chết của anh Hiệp. Anh này đúng là thủ phạm, là vai chính trong câu chuyện, đáng lẽ phải vạch rơ tên tuổi anh ta ra mới hợp lư chứ. Vậy mà bao nhiêu lâu nay, tôi vẫn không nhớ ra được! Ngày hai lần, tôi được đi lănh cơm cho anh em, anh Hiệp dặn tôi chịu khó ḍ la tin tức xem có ǵ đáng “phấn khởi” không, nhưng hoàn toàn thất vọng, bọn chúng cũng chẳng biết ǵ. Có lần tôi làm bộ ngây thơ hỏi một tên cán bộ: “không biết chúng tôi đă được cấp trên điều tra cứu xét chưa? chừng nào thả chúng tôi về, để đi “tŕnh diện học tập”. Hắn lạnh lùng trả lời tôi: - “C̣n cứu xét điều tra ǵ nữa, các anh ở đây sẽ được đưa đi học tập hết mà, đừng lo. Khi nào học tập tốt xong th́ được đảng và nhà nước cho về thôi”. Tôi cho anh Hiệp biết điều này, anh yên tâm chờ mà không nôn nóng nữa, có điều anh phàn nàn: “bọn ḿnh đi mà gia đ́nh không biết th́ tội nghiệp cho vợ con ḿnh quá!” Thỉnh thoảng tôi cũng đưa về cho anh một vài tin “vui”. Lần thứ nhất tôi gặp anh Hồ Văn Hoà, Tiểu Đoàn Trưởng 35/BĐQ thời Mậu Thân, với những trận đánh oai hùng vùng Chợ Lớn, đẩy lui địch ra khỏi thủ đô Sàig̣n. Anh Hoà ở pḥng số 3, cùng dăy AH với tôi và anh Hiệp. Lần thứ hai, tôi gặp ở cầu thang, một người lớn tuổi, râu tóc dài lùm xùm, như những người bị lạc vào hoang đảo lâu ngày, tướng đi ông kḥm kḥm, tay xách sô nước nhỏ, nhưng có vẻ khó khăn, khi đụng mặt, tôi nhận ra ông ngay: Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai, vị CHT cuối cùng của BĐQ – Tôi buột miệng gọi ông nho nhỏ: “Thiếu tướng!” Ông chỉ lặng lẽ nh́n tôi, rồi âm thầm đi lên lầu. Trong pḥng tôi có anh Hiệp, pḥng anh Hoà có anh Nhiệm, vậy là có 4 Sĩ quan BĐQ, Hạ sĩ quan BĐQ cả hai pḥng có khoảng 5 người, pḥng tôi có 1 Trung sĩ nhất và 1 Thượng sĩ mà tôi c̣n nhớ tên là Xuân, những người này khi gặp lại chúng tôi trong hoàn cảnh tang thương. Tuy không c̣n ǵ cả, nhưng họ vẫn giữ lễ, kẻ trên người dưới, lúc nào cũng nể v́ chúng tôi, điều này làm anh em chúng tôi cảm thấy an ủi rất nhiều. Vào một buổi sáng trời nắng đẹp, tên cai ngục dăy AH vào pḥng giam bảo tôi cắt cử 10 người ra nhổ cỏ ngoài sân quanh khám, một lát hắn sẽ tới dắt đi. Tôi cắt 10 người, trong đó có anh thanh niên Tuyên Úy Phật Giáo, Thượng sĩ Xuân v...v..? Trước khi tên cai tù đến nhận người độ vài phút, anh Hiệp ngỏ ư với tôi anh muốn đi ra ngoài hít thở cho khoẻ, đồng thời đi lại ngoài trời cho đỡ tù túng, chiều ư anh, tôi nói Bác sĩ Điền ở lại để anh đi thay. Khi tên cai tù lên nhận người dẫn đi, đếm qua đếm lại thấy thiếu 1 người, tôi đang quay qua quay lại để t́m th́ anh thanh niên Tuyên Úy từ trong pḥng vệ sinh chạy ra – Kiểm điểm đủ người, tên cai tù dắt họ đi, tôi đứng ở cửa pḥng, c̣n nghe tiếng anh Hiệp lầu bầu chửi đổng: "Đ.M." ǵ đây? – Đây là câu chửi đổng tôi thường nghe anh phát ra mỗi sáng sớm, lúc đó chưa ai thức giấc, tên thanh niên này đă dậy tập vơ, đấm, đá gió, nhẩy th́nh thịch trong pḥng, làm khó chịu mọi người, nhưng không ai nói ǵ, mà chỉ có anh Hiệp thấy chướng quá, hay chứi đổng nho nhỏ đủ tôi nghe: "Đ.M., mới sáng sớm đă đấm với đá, không cho ai ngủ". Tôi không ngờ tên thanh niên cũng nghe được và để bụng thù anh, tuy vậy hắn không nói năng ǵ, mà cứ thản nhiên tập vơ, nhảy nhót mỗi sáng sớm. Hắn c̣n cố t́nh gây tiếng động, có ư như trêu tức anh Hiệp nữa. Khi tên cai tù nhận người dắt đi, hắn bảo tôi khỏi đi, ở lại coi pḥng và anh em c̣n lại, đến 4 giờ chiều hắn sẽ đem người lên trả tại pḥng cho tôi. Sau 4 giờ chiều, khi anh em trong cả dăy pḥng đang ồn ào, lên xuống xách nước từ dưới lên lầu, th́nh ĺnh tôi nghe có tiếng la lớn ở dưới sân vọng lên: "có đánh lộn!" Rồi tiếng anh Hoà đứng ở đầu cầu thang hét vọng lên: "Khuê ơi ! tụi nó đánh thằng Hiệp ḱa!" Nghe vậy, tôi tức tốc chạy xuống, đă thấy anh Hoà ẵm anh Hiệp trên hai tay, anh Hiệp lúc này hai mắt nhắm nghiền, tay xuội lơ, máu chảy ra khoé miệng. Đúng lúc đó, tên cai tù dăy tôi cũng chạy xuống – Anh Hoà báo cho hắn biết anh Hiệp bị đánh bất tỉnh, tên cai tù hỏi ai đánh, lúc đó tên thanh niên Tuyên Úy đang chạy lên, phía sau anh em dưới sân la hét đuổi theo, dẫn đầu là Xuân, Xuân chỉ ngay hắn nói: "Nó đó, nó đánh anh Hiệp đó" Tên cai tù không nói không rằng, sấn tới chặn tên thanh niên lại, đá hắn một cái thật mạnh, hắn bị mất thăng bằng, lộn té xuống, lăn long lóc theo bậc thang. Cứ thế, tên cai tù đi theo xuống, tiếp tục đá hắn lăn xuống từng trệt, xuống đến đó, ba, bốn tên khác nhảy vào đánh hắn một trận đ̣n ác liệt, sau đó dẫn hắn đi biệt giam luôn. Sau này, chúng tôi không hề gặp lại hắn ở đâu nữa cả. Phần anh Hiệp, tên cai tù trở lên pḥng bảo tôi cứ để anh Hiệp nằm trong pḥng, chờ tới sáng hôm sau, sẽ có y sĩ lại khám cho anh. Nói xong, hắn bỏ đi, tên cai khác đến bảo tôi cho người đi lănh cơm – Tôi cắt Xuân và ba người nữa đi, c̣n tôi ở lại pḥng theo dơi t́nh trạng của anh Hiệp – Anh Hiệp vẫn nằm bất động, mắt nhắm nghiền, hơi thở thoi thóp, bác sĩ Điền bắt mạch cho anh, nói rằng mạch anh rất yếu, ông lật đầu anh qua lại để khám v́ dưới thân thể không thấy có xây xát ǵ, bác sĩ Điền nói có lẽ đầu bị đập mạnh xuống sàn xi măng, nên bị bất tỉnh. Khi anh Xuân lănh cơm về, tôi mới được anh kể rơ diễn tiến câu chuyện như sau: – Làm cỏ xong, anh em được tập trung đi tắm ở giếng nước giữa sân dưới tầng trệt, trước khi về pḥng – Tại giếng nước, Xuân đứng cách anh Hiệp không xa, trong khi mọi người đang chà xà bông từ đầu đến chân, anh Hiệp cũng vậy, mặt mũi đầy xà bông, đang chà rửa, Xuân nghe tên thanh niên Tuyên úy đứng sát anh Hiệp hỏi anh một câu mà Xuân cũng nghe: “Đ.M. hoài, rồi bây giờ đánh không?”. Hắn vừa nói vừa nhấc bổng anh Hiệp lên, quăng qua đầu hắn theo một thế Nhu đạo độc hiểm – Anh Hiệp ngă vật xuống nền xi măng gần giếng nước, rồi nằm bất động từ đó. – Khi ấy mọi người đều la lên: “có đánh lộn”, tên thanh niên bỏ chạy, nhưng hắn chạy ṿng ṿng, đi đâu cũng bị anh em la và rượt đuổi, dẫn đầu là Xuân, nên hắn hoảng hốt chạy thẳng lên lầu 3 – Không ngờ hắn lại gặp tên cai tù đang đi xuống, nên mới bị đá văng xuống và bị đ̣n hội đồng trước khi bị biệt giam. Anh Hiệp vẫn nằm mê man, bất tỉnh nhân sự, trên chiếu bên cạnh tôi, đến hơn 7 giờ tối, tôi thấy máu rỉ ra từ lỗ tai và lỗ mũi của anh, tôi báo cho bác sĩ Điền đến xem, ông cho biết anh Hiệp bị chấn thương sọ năo rồi, máu bị ứ đọng trong đầu, nên đă rỉ ra lỗ tai và lỗ mũi, rất nguy hiểm. Bệnh t́nh này, nếu đủ phương tiện và thuốc men, ông có thể cứu sống được, chứ như t́nh h́nh hiện tại, dù biết anh Hiệp sẽ chết trước mắt, cũng đành bó tay thôi, chuyển đi bệnh viện sớm phút nào, hy vọng tăng theo phút đó, nếu chậm trễ anh Hiệp chắc sẽ chết. Nghe tới đây, tôi và Xuân, không ai bảo ai, cùng đứng lên chạy ra cửa pḥng, chĩa miệng ra ngoài hét lớn: “… lầu 3, dăy AH, pḥng 1, có người bịnh nặng, cần cấp cứu”. Sở dĩ chúng tôi phải la lớn v́ giờ này, bọn cai tù đều tập trung ở dưới tầng trệt để ăn uống và xem TV, không có tên nào ở trên lầu cả, mạng sống của một người tù không quan trọng bằng một buổi xem TV, chiếc máy lạ lùng, từ nhỏ tới lớn ở miền Bắc, chúng chưa hề thấy, chỉ khi vào Nam chúng mới được mở mắt ra chút đỉnh, dễ ǵ chúng bỏ qua để đi lo cho người tù. Dù biết vậy, chúng tôi vẫn tiếp tục la lớn, nhưng không một tiếng trả lời, hay một chút động tĩnh ǵ ở bên ngoài cả, chúng tôi vẫn thay phiên nhau la cầu cứu trong tuyệt vọng, sau mỗi tiếng la của chúng tôi, chỉ là một khoảng không gian trống vắng, im ĺm. Đến khoảng hơn 8 giờ tối, th́nh ĺnh tôi nghe anh Hiệp hét lên một tiếng thật lớn, anh vùng bật dậy, vừa chạy một ṿng nhỏ trong pḥng, vừa hét lớn, sau đó anh ngă vật trở lại nằm trên chiếu của ḿnh, ngửa mặt lên trời, lúc này mắt anh lại mở trừng trừng nh́n lên trần nhà. Tôi ngồi xuống, sau khi chạy theo anh để đỡ, pḥng khi anh ngă xuống. Lúc này, tay anh quơ lên như muốn kéo tôi lại gần, cử chỉ của anh như muốn nói với tôi điều ǵ, tôi thấy miệng anh th́ thầm không ra tiếng. Tôi cố cúi sát xuống mặt anh để nghe, nhưng không nghe được ǵ cả. Anh muốn trăn trối với tôi điều ǵ, nhưng đă không kịp nói trước khi trút hơi thở cuối cùng. – Mắt anh vẫn mở trừng trừng nh́n lên khoảng không mờ nhạt, dưới ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn trong pḥng Bác sĩ Điền nắm tay anh bắt mạch, khoảnh khắc sau, ông lắc đầu nói: “Anh Hiệp đă đi rồi, anh chết thật rồi !”. Bác sĩ Điền nói thêm: “Như ngọn đèn dầu sắp cạn, phải loé lên một chút rồi tắt hẳn, anh Hiệp cũng thế, v́ uất hận, anh cố thu tàn lực bật dậy, la hét, sau đó ngă xuống và đi luôn”. Tôi vừa nghe, vừa vuốt mắt anh Hiệp, đôi mắt vẫn trợn trừng, biểu lộ biết bao căm hờn, đau đớn, uất ức. Tay tôi vẫn vuốt mắt anh, miệng lầm thầm khấn nguyện: “Xin anh thanh thản ra đi, linh thiêng pḥ hộ cho chúng tôi sớm được thả về, tôi sẽ báo tin cho chị và các cháu”. Khi thấy cặp mắt anh đă khép, tôi móc trong túi quần sau của anh, lấy cái bóp, trong đó có tấm h́nh của chị và các con, với ư muốn làm bằng chứng, để sau này có dịp báo tin cho chị và trả lại chị kỷ vật này của anh. Cá nhân tôi, dù đă nhiều lần vào sinh ra tử, cũng như biết khá nhiều về cuộc đời binh nghiệp lẫy lừng của anh, đồng thời đă có nhiều lần xông pha trận mạc, dưới quyền chỉ huy của anh, tôi thật sự bất ngờ, choáng váng, khi chứng kiến tận mắt cái chết của anh, nó đơn giản, tàn bạo, dă man, nó thể hiện rơ ràng tính dă thú, bất nhân, bất nghiă, độc ác, của con người với con người, nhất là ở buổi giao thời giữa hai chế độ. Tuy không là bà con, máu mủ, nhưng những tháng ngày, cùng với anh phục vụ trong một binh chủng, một đơn vị, không nhiều th́ ít, cũng đă có những gắn bó với nhau – Như thế, có thể nói, tôi là người thân thiết nhất với anh tại đây và bây giờ – Tôi thật đau ḷng, thật xót xa, khi nh́n anh ĺa đời trong hoàn cảnh nghiệt ngă này. Sau khi ổn định lại tinh thần, tôi bảo Xuân và một vài anh em khác, cùng nhau hét lớn vọng xuống lầu:”…, lầu 3, pḥng 1, dăy AH, có người chết.” Chúng tôi thay nhau la hét như vậy, đến lần thứ 5 mới có tiếng hỏi vọng lên: – Chết thật chưa? Tôi đáp: “Chết thật rồi”. Tiếng trả lời vọng lên ngắn ngủi: "Chờ đó đi". Chúng tôi lại phải chờ. Măi đến gần 10 giờ đêm chúng mới đến, chúng đặt anh Hiệp lên băng ca, phủ chiếc chiếu lên người anh, rồi khiêng anh đi luôn, có lẽ chúng khiêng anh xuống nhà xác, để báo cho gia đ́nh đến nhận. Tôi hy vọng được như vậy. Sau này, khi được thả về, tôi có lại nhà chị Hiệp, trao lại chị kỷ vật của anh và thuật lại tỉ mỉ câu chuyện cho chị nghe. Chị rất cảm động, không cầm được gịng lệ. Chị cũng rất cảm kích và nghĩ rằng, anh cũng đă được yên ủi phần nào, v́ ít ra, anh cũng vĩnh viễn ra đi, trong ṿng tay thân ái của tôi, một đàn em của anh và một vài đồng đội. Chị cho biết, hồi đó, họ cũng báo tin cho chị lên nhận xác anh về chôn cất, với lư do “chết do đánh nhau với bạn đồng tù”. Chị cũng tự an ủi là c̣n may mắn hơn nhiều người khác, v́ chị c̣n được thấy xác chồng, chứ sau này khi bị đưa ra Bắc, biết bao nhiêu người chết mà gia đ́nh không được biết tin tức và cũng chẳng biết chôn ở đâu. Ngày hôm sau, khi đi lănh cơm gặp anh Hoà, tôi định báo tin cho anh, nhưng anh đă nói trước: – Tao biết rồi, Hiệp nó chết rồi. Đêm qua tụi bay la như vậy ai mà không nghe. Anh nói tiếp, bắt đầu bằng một câu chửi thề cố hữu của người miền Nam: – Đụ mẹ đồ dă man, tụi nó không cho thằng Hiệp đi cấp cứu, chớ chở đi nhà thương ngay, nó đâu có chết đau đớn, tức tưởi như vậy, đúng là tụi hèn. Quả thật, câu kết luận của anh Hoà, hoàn toàn đúng, v́ sau này, qua những mẩu đối thoại, chúng tôi biết được chúng cố ư để anh Hiệp như vậy, có lẽ để “dằn mặt” chúng tôi chăng, đôi khi chúng c̣n tỏ rơ thái độ khiêu khích bằng cách nói chuyện với nhau cho chúng tôi nghe, để chúng tôi bị nhục nhă Cái chết của anh Hiệp đau đớn như vậy, nhưng chúng rất hả dạ, mặt chúng hớn hở nói cười với nhau, như để chọc tức chúng tôi, nếu chúng tôi có hành động ǵ, chúng sẽ vin vào đấy trừ khử, tiêu diệt ngay – Chúng tôi cảm nhận được âm mưu đen tối của chúng, nên anh em rỉ tai an ủi tinh thần nhau, khuyến khích nhau cố giữ b́nh tĩnh, tự kềm chế để đừng lọt bẫy của chúng. Hai tháng sau khi anh Hiệp mất, chúng tập họp, giải chúng tôi bằng xe bít bùng xuống tàu ở Tân Cảng, ḷng ṿng ra đến cửa biển, rồi lại trở lại Tân Cảng, lên xe bít bùng giải đi Suối Máu, Biên Hoà (trại tù phiến cộng). Chúng dở tṛ bịp thật ấu trĩ, 1 giờ sáng xe chạy từ Tân Cảng mà đến 5 giờ sáng mới tới Biên Hoà Toán chúng tôi ở Chí Hoà ra, đếm được gần 300 người, gồm đủ mọi thành phần, quân đội có từ binh sĩ đến cấp Tướng, hành chánh từ Phường trưởng, Xă trưởng đến Tỉnh trưởng, y tá, bác sĩ đủ cả, thậm chí có cả những người ăn mày, bụi đời, khùng điên, lang thang ngoài đường chúng cũng bắt hết – đúng với tâm niệm của bọn Cộng sản: “bắt lầm hơn bỏ sót”. Kế tiếp là những ngày tháng dài trong lao tù cộng sản, anh em chúng tôi bị hành hạ cả thể xác lẫn tinh thần, bị khủng bố ban ngày cũng như ban đêm, lúc nào cũng nơm nớp sống trong lo âu, sợ hăi – Những ư đồ thâm hiểm của bọn cộng sản ngày càng lộ rơ, đó là chúng cố t́nh hạ thấp và bôi nhọ giá trị của quân đội chúng ta. Chúng nhốt chung những sĩ quan Tướng, Tá, Úy, những nhân vật cao cấp trong hành chánh, cùng với những tên du đăng, bụi đời, những kẻ lưu manh, trộm cướp, coi tất cả cùng chung một tên gọi: “Tù”. Biết vậy, nhưng anh em chúng tôi vẫn dửng dưng, vờ như không biết, anh em tự an ủi lẫn nhau: “Thôi ! Mang thân phận kẻ chiến bại, dù có thừa khả năng và dũng khí, nhưng đă bị đồng minh bỏ rơi, lại c̣n bị thượng cấp gạt gẫm, bị trói tay, trói chân trước kẻ địch, chỉ là con cờ thí trong ván cờ quốc tế, giữa tư bản và cộng sản, mà hai nước siêu cường tiêu biểu cho hai chủ nghĩa này, họ cũng chỉ coi quyền lợi của nước họ là trên hết mà thôi, c̣n ǵ mà nói nữa – Hăy cố gắng vượt qua những khó khăn mà sống” Gần 30 năm sau cái chết của anh Hiệp, tôi và một số đông anh em cựu tù, được sống ở một nơi văn minh, tự do, sung sướng nhất địa cầu: Hoa Kỳ. Tôi chạnh nhớ và ghi lại những đau đớn, nhục nhă, uất ức của những ngày đầu mất nước, mà nạn nhân là toàn thể dân chúng miền Nam, nhưng nặng nề nhất, có lẽ là những thành phần quân nhân như anh em chúng tôi. – Những đau đớn hằn sâu trong tâm hồn tôi, khó ḷng phai nhạt, đừng nói chi đến chuyện xoá bỏ – Bao nhiêu gia đ́nh tan nát – Bao nhiêu người v́ đi t́m tự do mà phải bỏ thân nơi rừng rậm, nơi biển cả – Bao nhiêu phụ nữ, thiếu nữ, mang nỗi nhục nhă, kinh hoàng, khi thân xác bị những con người, dạ thú dày ṿ, hành hạ, sống dở, chết dở – Bao nhiêu đồng đội của tôi vùi xác nơi rừng thiêng nước độc, bị bỏ đói, bệnh hoạn không một chút thuốc men trong các trại tù khổ sai – Biết bao nhiêu gia đ́nh tan nát và những di hại của chế độ cộng sản, không biết sẽ c̣n tàn phá đất nước đến bao giờ – Ôi! nước mất, nhà tan. Câu nói của người xưa thật chí lư. Thật sự, tôi cũng không muốn nhớ đến những chuyện này, v́ nó đau quá, buồn quá, nhưng mỗi khi nghe đôi ba ông gọi là “chính trị gia”, những ông gọi là nhà văn, nhà báo, những thành phần được coi là học giả, trí thức – Họ nhân danh tự do, dân chủ, nhân danh quốc gia, dân tộc, lên tiếng cổ vơ cho việc hoà giải, hoà hợp, xoá bỏ hận thù, quên quá khứ để xây dựng đất nước, tương lai v…v… Tôi tự hỏi, không biết quốc gia, dân tộc của họ là ǵ, và họ ở đâu mới chui ra mà quên mau quá vậy??? Đầu óc tôi lại quay cuồng, nhớ đến tiếng hét uất hận của anh Hiệp trước lúc lâm chung. Nguyễn Quốc Khuê |
Tiểu Đoàn 52 Biệt Động Quân "Sấm Sét Miền Đông"
1 Attachment(s)
Từ Đồng Xoài đến Bà Rịa Trong chiến sử của binh chủng Biệt Động Quân, Tiểu đoàn 52 Biệt Động Quân là 1 trong những đơn vị đă có những trận đánh được ghi vào quân sử Việt Nam Cộng Ḥa. Chỉ sau hơn 1 năm thành lập, Tiểu đoàn 52 Biệt Động Quân (BĐQ) đă được báo chí vinh tặng danh hiệu “tiểu đoàn Sấm Sét Miền Đông” sau trận đánh lịch sử tại quận lỵ quận Đôn Luân (Đồng Xoài), vào tháng 5/1965. Đây là lần đầu tiên trên chiến trường Việt Nam, Cộng quân đă huy động ba trung đoàn chủ lực để đánh chiếm một quận lỵ của Việt Nam Cộng Ḥa, và dàn quân để nghênh chiến các đơn vị tiếp ứng. Là lực lượng trừ bị cơ hữu của Quân đoàn 3, Tiểu đoàn 52 Biệt Động Quân được điều đồng tiếp cứu quân trú pḥng ở Đôn Luân. Theo kế hoạch hành quân, toàn tiểu đoàn được trực thăng vận xuống Phước Thành vào buổi trưa và sau đó đổ quân xuống sân vận động quận lỵ vào 4 giờ chiều, đúng vào lúc Cộng quân đă tràn ngập trụ sở quận. Qua liên lạc, Bộ Tư Lệnh Quân đoàn 3 xác nhận là lực lượng chi khu Đôn Luân c̣n làm chủ t́nh h́nh trong quận lỵ. Đại đội 4 của tiểu đoàn tiến vào th́ bị Cộng quân từ quận đường bắn ra. Trước t́nh h́nh đó, ba đại đội c̣n lại và ban chỉ huy tiểu đoàn đă rút ra ngoài hàng rào trước cửa để đợi Quân đoàn tái xác nhận. 15 phút sau, Trung đội 1 của đại đội 3 bám sát hàng rào ngoài quận đường quan sát và thấy rơ Cộng quân đang sử dụng đại liên đặt trên chiến xa của chi khu (địch đă chiếm được) để tác xạ vào đội h́nh của Biệt Động Quân. Sau khi nhận được báo cáo, Đại úy Hoàng Thọ Nhu, Tiểu đoàn Trưởng, xin sự yểm trợ của Không Lực Hoa Kỳ qua sự liên lạc của cố vấn, oanh tạc ngay vào quận đường. Hai phi cơ B57 đă nhào xuống tiêu diệt các ổ hỏa lực của Cộng quân trên 2 xe thiết giáp. Đợt oanh tạc kết thúc, kho đạn trong Chi Khu (Quận) nỗ dữ dội. Trung úy Trần Thanh Thủy, Đại đội Trưởng Đại đội 3 quyết định tung Trung đội 1 ḅ vào chiếm lại quận đường. Khoảng 8 giờ đêm, kho đạn ngừng nổ, đại đội 3 đă bố trí quanh hàng rào pḥng thủ của chi khu để đợi Cộng quân từ hai trại bên kéo trở lại. Biệt Động Quân đánh tan hai cánh quân này và sau đó tràn lên tái chiếm căn cứ Biệt kích và Pháo binh trong quận lỵ trước khi trời sáng. Tiểu đoàn 52 Biệt Động Quân đă tịch thu hàng trăm vũ khí, trong đó có hơn 50 súng AK47. Sau chiến thắng này, tiểu đoàn được tuyên dương công trạng trước Quân đội. Tháng 10/1965, do áp lực nặng của Cộng quân tại Phước Tuy, Tiểu đoàn Sấm Sét Miền Đông được Bộ Tư Lệnh Quân đoàn 3 tăng phái cho tiểu khu Phước Tuy, đặt dưới quyền điều động của Trung Tá Lê Đức Đạt - Tiểu Khu Trưởng (năm 1972, ông là Đại Tá Tư Lệnh Sư đoàn 22 Bộ Binh, tự sát tại Tân Cảnh cuối tháng 4/1972). Theo phân nhiệm, tiểu đoàn là nỗ lực chính trong các cuộc hành quân tảo thanh và giải tỏa áp lực của Cộng quân tại Xuyên Mộc, Đất Đỏ, Hàm Long, Núi Đất. Do phải tăng phái 1 đại đội của Tiểu đoàn (Đại đội 1/52) pḥng ngự ở B́nh Giả, nên tiểu đoàn chỉ c̣n 3 đại đội và ban chỉ huy tiểu đoàn tham gia cuộc hành quân trên địa bàn Phước Tuy. Ngày 11 tháng 11/1965, theo kế hoạch của Bộ chỉ huy Tiểu khu Phước Tuy, đại đội 2/52 do Trung úy Trần Trọng Truồi chỉ huy được chỉ định hoạt động dọc theo đèo Mẹ Bồng Con, tiểu đoàn chỉ c̣n lại hai Đại đội 3/54, 4/52 và được lệnh di chuyển từ vùng hành quân về vị trí mới. Thành phần này được Tiểu khu Phước Tuy tăng cường hai xe thiết giáp (loại xe của Mă Lai dùng để tiểu trừ du kích) và 1 đại đội Địa phương Quân. Đoàn quân do Đại úy Nguyễn Hiệp, Tiểu đoàn Phó chỉ huy. (Tháng 9/1966, Đại úy Hiệp giữ chức Tiểu đoàn Trưởng, thăng Thiếu Tá sau trận đánh Suối Ḷng). Trong khi tiểu đoàn đang di chuyển trên Quốc Lộ 15 th́ Bộ chỉ huy Tiểu khu Phước Tuy được một hồi chánh viên cho biết là trung đoàn của anh ta đang bố trí sát sân bắn ở đầu tỉnh đợi phục kích Tiểu đoàn 52 BĐQ. Liền ngay sau đó, phi cơ quan sát L19 được gởi tới, quan sát viên xác nhận đă thấy các cụm bố trí của Cộng quân (CQ). Khi vị Tiểu đoàn Phó nhận được thông báo về cuộc phục kích của CQ th́ đoàn xe đă tiến vào khu vực mà địch quân đang bố trí. Theo lời kể của Đại úy Hiệp với một số phóng viên chiến trường sau khi trận đánh kết thúc, th́ vị Tiểu đoàn Phó này đă kịp thời đưa ra một quyết định khẩn cấp là cho lệnh đoàn xe dừng lại khi c̣n cách khúc quanh 50 thước - nơi mà Cộng quân được lệnh khai hỏa khi chiếc xe đầu tiên xuất hiện, đồng thời chỉ định trung đội đi đầu của Đại đội 3 khởi động khai hỏa khi có lệnh. Trở lại với trận phục kích trên Quốc Lộ 15, theo các tài liệu tổng hợp của đặc san Mũ Nâu và KBC, tuyến phục kích của địch quân dài 2 km với 2 tiểu đoàn dàn trận từ chân núi Thị Vải. Tiểu đoàn CQ thứ ba nằm cạnh sân bắn của tỉnh. Khi đoàn xe vừa ngừng, các chiến binh Nũ Nâu đă tự động nhảy xuống bố trí. Trung đội 1 của đại đội 3 do 1 Trung úy chỉ huy được Đại úy Trần Thanh Thủy - Đại đội Trưởng, tăng cường 2 thiện xạ nổi tiếng thuộc ban chỉ huy đại đội là Thượng sĩ Hoàng Tào với cây súng M14 và Hạ sĩ nhất Đinh Đô với cây AR15 thần tốc, hai tay súng này đă yểm trợ cho tổ đại liên của Trung đội 1 khai hỏa loạt súng đầu tiên cho trận đánh thay v́ phát súng đầu tiên do Cộng quân khai hỏa. Tổ hỏa lực tiền tiêu của CQ đặt tại vườn mít nằm sát Quốc Lộ 1, đă phải lúng túng khi Biệt động quân khai hỏa trước, v́ theo kế hoạch phục kích của CQ, tổ hỏa lực này chỉ khai hỏa khi chiếc xe đầu tiên của BĐQ đến khúc quanh. Sau khi khai hỏa, Trung đội 1/đại đội 3 tràn lên chiếm vườn mít. Cây B 40 của tổ hỏa lực CQ chỉ mới bắn được một phát trúng xe cơ giới của Địa phương Quân gây phát hỏa, đă bị một toán chiến binh Trung đội 1 tràn lên đoạt ngay. Trận chiến trở nên quyết liệt hơn khi Cộng quân từ các vị trí bên trong bắn xối xả về hướng của Biệt Động Quân để yểm trợ cho thành phần xung kích đang tràn ra. Tại Vườn Mít, tổ đại liên M60 cùng hai thiện xạ M14 và AR15 đă chận đứng đợt xung phong của địch. Để yểm trợ cho Tiểu đoàn 52 Biệt Động Quân, sau khi nhận được yêu cầu của Quân đoàn 3, phản lực cơ F100 của Không quân Hoa Kỳ từ Đệ Thất Hạm Đội đă bay vào vùng xảy ra giao tranh. Để Không Quân khó oanh tạc, Cộng quân cố tràn ra bám sát trận địa, vườn mít trở thành mục tiêu của cả hai bên. Theo lệnh của Tiểu đoàn Phó, Đại úy Trần Thanh Thủy - Đại đội Trưởng Đại đội 3 cho rút Trung đội 1 rút về bên kia Quốc Lộ dể Không Quân dễ dàng oanh kích Cộng quân. Trong khi F100 oanh tạc dữ dội, th́ Trung đội 1 men theo Quốc Lộ tiến về khúc quanh sát sân bắn để đợi dịp xung phong vào cánh trái của địch quân. Đối phương cố bám sát Biệt Động Quân để vô hiệu hóa các phi vụ Không Yểm, trong khi đó phía sau của Tiểu đoàn 52 BĐQ là băi śnh lầy lội, do đó Đại úy Hiệp - Tiểu đoàn Phó đă xin Không Quân oanh tạc dọc Quốc Lộ, chấp nhận cùng địch tổn thất nếu bị rủi ro. Cùng lúc đó, Đại đội 2/52 đang hoạt động tại đèo Mẹ Bồng Con được lệnh rời vùng hành quân để tiếp ứng. Cả đại đội này đă quá giang xe đ̣ về bố trí ở ấp sát khu vực phục kích. Trung úy Trần Trọng Truồi, Đại đội Trưởng đă cho các trung đội dàn quân để đợi lệnh xung phong tấn công địch quân từ cánh phải. Với lối điều quân linh động, lực lượng Tiểu đoàn 52 Biệt Động Quân dù ít nhưng đă có được 2 gọng kềm phía ngoài để kẹp ngược lại các đơn vị Cộng quân. Sau 1 giờ giao tranh với nhiều phi tuần F 100 yểm trợ liên tục, Cộng quân đă bị tổn thất nặng. Trời gần tối, Đại úy Hiệp xin ngưng không trợ và cho lệnh các đại đội xung phong. Tiểu đoàn 52 Biệt Động Quân từ chính diện và hai bên trái phải của Cộng quân đồng loạt tiến lên theo tiếng c̣i của cấp chỉ huy. Tuyến phục kích bị chọc thủng, Cộng quân tháo chạy về cánh rừng sát chân núi Thị Vải. Sau trận đánh, Tiểu đoàn 52 Biệt Động Quân đă được các tướng lănh Hoa Kỳ ngợi khen. Theo đề nghị của Bộ Tư Lệnh Hoa Kỳ tại Việt Nam, Tổng Thống Jonhson đă kư quyết định ân thưởng huy chương Danh Dự của Tổng Thống Hoa Kỳ cho Tiểu đoàn Sấm Sét Miền Đông. Vương Hồng Anh |
Cám ơn Huynh Hoanglan22 đă luôn ghi lại những h́nh ảnh với những trận đánh oai hùng của Quân Lực VNCH trong Quân Sử Thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Ḥa !...
Thân Chúc Huynh HL22 và Gia Quyến 1 Năm Mới 2021 được nhiều Niềm Vui Hạnh Phúc và VẠN SỰ NHƯ Ư !:thankyou::handshak e::handshake: HDD |
Quote:
|
TỔNG KẾT TRAO QUÀ XUÂN 2021 CỦA QUƯ THƯƠNG PHẾ BINH VNCH VÙNG SÀI G̉N
TỔNG KẾT TRAO QUÀ XUÂN 2021 VÀ TÂM T̀NH TRI ÂN CỦA QUƯ THƯƠNG PHẾ BINH VNCH VÙNG SÀI G̉N |
GIÁNG SINH XƯA VÀ NGƯỜI LÍNH VIỆT NAM CỘNG H̉A
GIÁNG SINH XƯA VÀ NGƯỜI LÍNH VIỆT NAM CỘNG H̉A Cho đến nay, dẫu đất nước Việt Nam Cộng Ḥa, đă bị bức tử, nhưng h́nh ảnh của những lần đón mừng Lễ Giáng Sinh xưa và Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa vẫn không bao giờ phai nhạt. Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa, với h́nh ảnh oai hùng trên khắp sa trường, đối diện với những nguy nan, xem thường tử sinh nơi chiến địa; nhưng h́nh ảnh Người Lính vẫn thật đẹp, thật lăng mạn với h́nh ảnh trong những lúc dừng quân, Người Lính lại viết thư: ![]() “Đồn anh bên sông cạn, và hoàng hôn ướt đẫm đáy sông thưa ; Nhiều tên trong đơn vị gọi đùa anh chiến sĩ của mộng mơ ; Thường khi hai ba thằng, chiều chiều ra bờ vắng ngắm mông lung. Một thằng nhớ em, để một thằng nhớ thêm. C̣n ḿnh t́m h́nh lén xem. Thư của lính không xanh màu trời như mơ ước đâu em. Thư của lính không thơm nồng hương, không nét hoa đa t́nh. Thư của lính ba lô làm bàn nên nét chữ không ngay Nhưng thư của lính ghi giữa rừng cây khi nhớ em thật đầy”. Và nơi “Tiền đồn heo hút, tinh tú quây quần nghe Anh kể chuyện đời Lính”. Rồi người Lính lại ngồi lại với nhau, để đọc những “Bức tâm thư”: ![]() “ Hôm qua hành quân dừng chân trên dăy đồi sim Anh vui nhiều hơn v́ đọc thêm lá thư em Lời thư đẹp quá, đọc đă bao nhiêu lần, mà ḷng vẫn c̣n thương ” Và rồi, mùa Đông lại đến, Giáng Sinh lại về, trên những tiền đồn, hay những Căn Cứ xa xôi, Người Lính không thể trở về phố thị, để sum họp bên mái ấm gia đ́nh, nên Người Lính đành phải đón mừng Giáng Sinh với tất cả những ǵ có thể làm, có thể tạo ra những h́nh ảnh Giáng Sinh, với những Hang Đá “dă chiến”, để cùng nhau, tay súng, tay đàn, hát những bài ca yêu thích, để cùng nhau san sẻ những niềm vui đời Lính Chiến. ![]() Một lần nữa, người viết xin trích lại một bài viết của chính ḿnh, về những mùa Giáng Sinh xưa: “Đêm nay, đêm Giáng Sinh - Đêm Thánh Vô Cùng - Đêm chia hai lịch sử của nhân loại. Mọi người ở trên mặt địa cầu này, dù có tin Chúa hay không; nhưng mỗi lần đặt bút xuống, để ghi lại một ngày tháng nào đó, dù là ngày vui hay là một ngày buồn, th́ chính họ, mặc nhiên công nhận : Đó là ngày đánh dấu niên lịch của sự kiện Chúa Cứu Thế đă Giáng Sinh.” Cùng giao ḥa với sự đổi thay của đất Trời, để nhân loại có một niên lịch vĩnh cửu như hôm nay , chúng ta, những người Việt đang sống đời vong quốc ở khắp bốn phương Trời hồi tưởng về những năm tháng cũ của một thời chinh chiến. Đặc biệt, với những chàng thư sinh đă từng t́nh nguyện xếp bút nghiên theo việc đao binh, từ giă mái trường cùng bè bạn thân yêu, lên đường ṭng quân, với nguyện ước để bảo vệ đồng bào, bảo vệ miền Nam Tự Do, v́ đó là bổn phận của người thanh niên giữa thời đất nước đang lâm vào cơn nguy biến. Những ngày tháng đầu tiên nơi “Thao trường đổ mồ hôi, Chiến trường bớt đổ máu”; lần đầu tiên khoác chiến y, trở thành người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Ḥa, những “Đoạn Đường Chiến Binh”đầy thử thách, nhưng với chí nam nhi các anh đều vượt qua tất cả, để làm tṛn trách nhiệm: Đem sinh mạng của chính ḿnh, để bảo vệ non sông. Từ những năm tháng ấy, gót chinh nhân đă từng lưu dấu trên khắp Bốn Vùng Chiến Thuật, mà có khi cả năm, các anh không được một lần về phép, để sum họp cùng người thân bên mái ấm gia đ́nh. Cho đến khi những đám mây đen vần vũ trên khắp đầu non, và những ngọn gió Đông giá buốt xoáy vào những chốn rừng sâu, ở các đơn vị nơi biên pḥng giới tuyến, th́ các anh bỗng nhớ đến rằng : Mùa Vọng và Giáng Sinh lại trở về giữa chốn núi rừng hoang lạnh, thế rồi, với những đôi tay khéo léo như một nghệ nhân của các anh - các chị - các cô Chiến Sĩ Tâm Lư Chiến của đơn vị, đă gom góp : Những tấm cạt-tông, những tờ giấy xi-măng được tách ra, những cọng cỏ, rơm khô, những nắm đất sét mềm mại vàng nâu, những viên đá, viên sỏi… những cục nhựa đặc biệt mềm và dẻo của loại cây Sưng (sâng) có một mầu vàng trong suốt… và để có những sắc mầu trang trí cho Hang Đá, th́ các anh đă lấy mầu vàng từ cốt nước của loại lá Dung, mầu đỏ từ cốt nước của thân cây Vang ở ven rừng… rồi pha thêm thành nhiều mầu khác, sau đó, đem trộn lẫn với một chất keo chiết từ lá khoai lang, cộng thêm với những nhánh Thạch Thảo, thế là đă đủ, để các anh-các chị-các cô Chiến Sĩ Tâm Lư Chiến cứ vừa hát vừa biến tất cả thành những chiếc Hang Đá thật tự nhiên, tái hiện một Hang Bê-Lem của từ ngh́n năm trước, và được đem đặt ở một nơi trang trọng nhất của đơn vị, có nơi là một Pḥng Văn Khang , để đêm về người Chiến Sĩ quỳ bên máng cỏ, hoặc ở một nơi nào đó của đơn vị và cất tiếng hát giữa đêm thâu những bài Thánh Ca hoặc những bản nhạc viết về Giáng Sinh như : Đêm Thánh Vô Cùng, Bài Thánh Ca buồn… Những Người Lính tiền đồn đón Noel bằng vật liệu tác chiến sẵn có. Nào ống phóng lựu M72 làm trụ, đạn đại liên M60 làm lá thông, đạn M79 làm dây đèn trang trí cùng với 5 quả đạn súng cối, trên đỉnh làm ngôi sao và vài thùng đạn làm đế cây phía dưới. Thật tuyệt, một h́nh thức trang trí đón mừng Giáng Sinh của Lính. C̣n đây, là những h́nh ảnh của Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa đă đón Giáng Sinh ở những doanh trại, tiền đồn, hay các Căn Cứ xa xôi: ![]() Các quân nhân Sư Đoàn 7 BB đang trang trí hang đá trong đơn vị ![]() ![]() ![]() Ngày nay, Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa, dẫu không c̣n được tay súng, tay đàn như những ngày hào hùng, thân ái cũ. Có những Người Lính đă vĩnh viễn ra đi ! Người c̣n ở lại, bùi ngùi, rưng rưng tiếc nhớ những năm tháng được sống trong “T́nh Huynh Đệ Chi Binh”. Người Lính không bao giờ quên những giờ phút đă từng sát cánh bên nhau giữa các chiến hào, say mùi thuốc súng, đối đầu với quân giặc, để rồi thốt lên câu: “ Những người muôn năm cũ ; Hồn ở đâu bây giờ ?!” Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa, với những chiến công lẫy lừng, với những trận địa nổi danh trong Quân Sử : Mùa Hè Đỏ Lửa, Quảng Trị, B́nh Long, An Lộc… Đặc biệt, trong trận chiến Mậu Thân, 1968, v́ đă “ tin ” cái “Thỏa ước hưu chiến ba ngày cho đồng bào ăn Tết ” do chính Cộng sản xâm lăng Bắc Việt “đề xướng”, nên một nửa quân số của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đă được phép về ăn Tết với gia đ́nh. Lịch sử sẽ măi măi khắc ghi: Giữa đêm Giao Thừa Mậu Thân, 1968, th́ “Giặc từ miền Bắc vô đây, bàn tay nhuốm máu đồng bào”. Quân xâm lăng Cộng sản đă tấn công vào các thành phố, máu đổ, đầu rơi, bao xác dân lành ngă đổ, khói lửa lan tràn, quyện giữa làn khói hương nghi ngút trên bàn thờ gia tiên của đồng bào miền Nam ! Thế nhưng, dẫu Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, với quân số, chỉ c̣n phân nửa, nhưng Cộng sản Bắc Việt gồm có sự tiếp tay đắc lực của Nga, Tàu và cả những tên lính Bắc Hàn đă cải trang thành “bộ đội Bắc Việt”, (Sau này, Bắc Hàn đă sang Việt Nam đem xương cốt của chúng về nước, th́ người ta mới biết). Riêng về mặt quân sự, phần lớn các loại vũ khí của Quân Giải phóng đều do Liên Xô và Trung Quốc viện trợ, trong đó chỉ tính riêng vơi súng bộ binh, tổng số lượng viện trợ của các nước đồng minh Xă hội Chủ nghĩa đă lên tới hơn 3,5 triệu khẩu. Nguồn ảnh: TL. ![]() Và v́ đă không được “ chiến ” vào trận đánh cuối cùng. Chính v́ thế, nên Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa không hề có “ bại” ![]() Tạm kết : Qua những h́nh ảnh của Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa, từ lúc xếp bút nghiên, lên đường ṭng chinh. Người Lính luôn tâm niệm: Tổ Quốc - Danh Dự - Trách Nhiệm cho đến giây phút cuối của cuộc đời. Người Lính không cho phép ḿnh đón Giáng Sinh, hoặc vui Xuân cho riêng ḿnh, khi đất nước c̣n ch́m trong lửa khói của quân xâm lăng. “Em nghe không ngoài kia, Trời Đông đă lên rồi, bao lớp người đi, đầu mây chân gió, vai nặng gánh sông hồ, c̣n bao lâu nữa, xin em thôi hờn dỗi. ................. Đây gói hành trang xếp lại cho tṛn để anh đi nhé. Xin chớ u buồn v́ trong những ngày dài anh vắng bên em. Nhưng xin em đừng quên, từng đêm súng vang về trong giấc ngủ say, là khi anh đă dâng nguồn sống cho đời, và cho đôi lứa đẹp ước mơ…” Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa, là tất cả những ǵ cao quư, hào hùng, đẹp nhất trên đời, khi các Anh đă dâng hiến đời ḿnh cho Tổ Quốc và Dân Tộc. Hôm nay, và măi măi cho đến ngàn sau, dẫu có “hái ngàn sao” trên Trời, hay “gom hết sóng nước của đại dương”, cũng không sánh bằng những hy sinh vô bờ bến của Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa trong suốt hơn hai mươi năm, đă góp máu xương trong đại cuộc chung : BẢO QUỐC - AN DÂN ! ![]() Hậu thế, cần phải ghi nhớ : Quân xâm lăng Cộng sản Bắc Việt được Nga, Tàu tiếp tế súng đạn, vũ khí hùng hậu, và điêu ngoa quỷ quyệt khi đă trắng trợn bội ước hưu chiến trong cuộc “Tổng Công Kích Tết Mậu Thân, 1968”, là như thế; nhưng vẫn không thắng nổi Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa th́ nếu vào thời điểm trước và sau 30/04/1975, nếu không bị bức tử, và nếu được đánh một trận thư hùng cuối cùng, th́ chắc chắn Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa phải thắng ! ![]() Giáng Sinh 2020 Hàn Giang Trần Lệ Tuyền |
CHƯƠNG TR̀NH " TÂM T̀NH NGƯỜI TPB VNCH " XUÂN 2021
CHƯƠNG TR̀NH " TÂM T̀NH NGƯỜI TPB VNCH " XUÂN 2021 |
CHIẾN TRƯỜNG TAM BIÊN
CHIẾN TRƯỜNG TAM BIÊN ![]() ![]() Chuyện kể của Cựu Đại Úy Biệt Cách Dù Lê Đắc Lực. “mong manh cánh lan rừng xanh bên thác uốn quanh” “ Chiều lên Bản Thượng ” Đâu phải lần nầy đơn vị tôi mới lên rừng. Dù ở Tiểu Đoàn hay Thám Sát Delta, “lên rừng” là những cuộc hành quân thông thường và sở trường của chúng tôi. Ba Ḷng, A-Shau, An Lăo, Dakto… nơi nào không là núi rừng? Chỉ có thời gian Tết Năm Mậu Thân mới đánh nhau với địch ở Thành Phố Nha Trang, Gia Định, Saigon. Địch ở trên rừng, chúng tôi lên rừng, địch về thành phố, chúng tôi về thành phố. Nơi nào có địch, cấp trên điều là chúng tôi tới. Phía Tây Quê Hương Việt Nam, núi rừng xanh ngắt trùng điệp, nh́n màu xanh Quê Hương, vừa thấy đẹp, vừa thấy buồn, vừa thấy thương… ![]() Chuyến đi nầy th́ thấy thương hơn, lên tới vùng Tây Bắc Kontum, qua khỏi những cái tên mà người Thành Phố đă nghe tới nhiều, nhưng vẫn c̣n thấy lạ lẫm : - Dakto, Dak-Bla, Ban-Het, Tân Cảnh, Tu-Morông, hay các Trại Lực Lượng Đặc Biệt Polei-Kleng, Plei-Djereng kế cận vùng Tam Biên. Tam Biên là khu vực giáp ranh của ba biên giới : - Việt, Miên, Lào. Vào khoảng tháng 2 năm 1971, gần tới Tết con Heo, năm Hợi . Trước ư đồ xảo trá của bọn giặc cọng, chúng muốn tái diễn cái tṛ lấn đất dành dân, nên đă chuyển quân tràn qua biên giới ngỏ hầu mở ra các cuộc tấn công xâm chiếm Thị Xă Kontum hay một vài Quận Lỵ lân cận để làm áp lực trong cuộc Hội Đàm 4 bên tại Paris. Việt cọng đă đưa quân theo con đường ṃn Hồ Chí Minh, từ Lào, từ Cambodia qua ẩn trú sát nách biên giới trong vùng rừng rú lănh thổ trách nhiệm của Quân Đoàn II. Để xác định chính xác về đơn vị, cấp số và vùng trú quân của lực lượng địch, ngỏ hầu lập kế hoạch tấn công, tiêu diệt hay pḥng thủ. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II đă tŕnh xin Bộ Tổng Tham Mưu đưa Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù tăng phái cho Sư Đoàn 22 Bộ Binh để hành quân thám sát kiểm chứng, xác minh. Toàn bộ Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù được không vận đến Phi Trường Kontum, và lập căn cứ Hành Quân ở mạn Tây sát bên hông Phi Đạo. Vào những ngày cận Tết, Kontum trời se lạnh, thỉnh thoảng có những trận mưa rào, làm cho những chiến binh đang buồn v́ phải xa Sài G̣n như chúng tôi lại càng buồn hơn. Từ căn cứ hành quân, lội bộ gần cả cây số mới tới khu phố Hàng Keo, nằm cạnh bờ sông Dak-Bla, để uống một ly cà-phê đen nóng và nghe vài ba bản nhạc giải khuây, ngoài ra chẳng có ǵ làm vui trên cái xứ cao nguyên hẻo lánh này. ![]() Đêm Giao Thừa, nằm trải dài trên chiếc ghế bố, thỉnh thoảng tôi nghe từng tràng đạn pháo nổ ḍn bên tai, ngoài trời th́ liên tục được thắp sáng bởi những trái hỏa châu, đầu óc tôi cứ bị đè nặng trong không khí chiến tranh. Chẳng biết đến bao giờ Đất Nước tôi mới không c̣n bom rơi đạn nổ. Tôi ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Sáng vừa thức dậy, Thượng Sĩ Mai Xuân Hùng, Thường Vụ Đại Đội, báo tin cho hay hôm nay sẽ có Biệt Đoàn 5 Văn Nghệ Trung Ương ở Sài G̣n lên tŕnh diễn ủy lạo. Tin thật vui mà lại quá buồn cười. Đơn vị tôi đóng ở ngă tư An Sương, Hốc Môn, Sài G̣n. Biệt Đoàn 5 Văn Nghệ Trung Ương cũng ở Sài G̣n, sao không cho nghe hát ở dưới đó mà kéo nhau lên rừng, bên hát, bên nghe ? Mấy ngày qua, một hai Toán Thám Sát đă xâm nhập hoạt động trong các vùng gần Tam Biên, nằm về hướng Tây Nam Dakto, cách Trại Polei-Kleng về hướng Tây Bắc khoảng 20 cây số. Các Đại Đội th́ đang túc trực ứng chiến tại căn cứ Hành Quân. Tối lại, ngoài các Sĩ Quan, Binh Sĩ trực hành quân và canh gác, bốn Đại Đội tập trung ngồi phía trước cái sân khấu dă chiến, được kê cao bằng những tấm palette nhôm của Quân Đội Mỹ, đặt trên các thùng “phuy” chứa đầy nước, phía sau là căn lều bạt để các Ca Nghệ Sĩ làm chỗ trang điểm, thay đổi y phục. Ban Nhạc đánh trống thổi kèn trên ấy, Ca Sĩ hát trên ấy, chúng tôi ngồi dưới đất, ngưỡng cổ hào hứng vừa nghe vừa nh́n. Các Ca Sĩ lần lượt xuất hiện : - Phương Hồng Quế - Phương Hoài Tâm - Phương Dung - Thanh Mai - Chế Linh - Hùng Cường Duy Khánh v.v… Các Nữ Ca Sĩ cũng mặc đồ trận, quần áo rằn ri Biệt Động Quân, Nhảy Dù, Biệt Cách Dù. Mà có ǵ lạ đâu, các Cô là Binh 1, Hạ Sĩ danh dự của các Quân Binh Chủng mà. Phó Tổng Thống Trần Văn Hương cũng là Hạ Sĩ danh dự đấy. Nghe giới thiệu lon lá như thế, chúng tôi rất vui và vỗ tay hoan hô liên tục, không dứt. Duy Khánh xuất hiện trên sân khấu. Rất ít người Huế không biết Duy Khánh. Chúng tôi th́ rành sáu câu bởi v́ khó có ai hát hay hơn Duy Khánh với bài “Xuân nầy con không về!” Hồi chưa nhập ngũ, gần Tết, tôi cũng bắt chước Duy Khánh: “Con biết bây giờ Mẹ chờ em trông, nhưng nếu con về bạn bè thương mong”. Ông Anh con ông cậu tôi, giáo sư, nghe tôi hát, phán một câu: “Thằng ni bất hiếu. Cha mẹ phải hơn bạn bè chớ !”. Có lẽ ông Anh tôi ngoài tuổi nhập ngũ, chưa từng đi lính, nên không rơ t́nh Đồng Đội như thế nào. Sinh ra ta là Cha Mẹ, cứu mạng ta giữa chiến trường là Đồng Đội. Chưa từng đi đánh giặc, chưa từng gặp gian nguy, thập phần sinh tử nên khó biết cái t́nh Đồng Đội ấy thiêng liêng, cao quí như thế nào. Càng xông pha trận mạc, vào sinh ra tử, tôi hiểu tâm trạng người lính trong bài hát hơn Ông Anh của tôi.[b][size=3][color=black][i] Sau đêm tŕnh diễn, Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương trở về Sài G̣n ngay sáng hôm sau. Chúng tôi đón Xuân không có “thịt mỡ dưa hành, câu đối đỏ”, [b][size=3][i]thiếu cả tiếng pháo đ́ đùng. V́ Tết Mậu Thân mà bây giờ có lệnh cấm pháo. Đồng bào cũng nản “quân giải phóng” nên không ai c̣n muốn đốt pháo làm chi để Việt cọng lợi dụng vào Thành Phố mà giết Đồng Bào. Ba ngày Tết lặng lẽ trôi qua. Buổi sáng Mồng 4, Trung Úy Thứ, Sĩ Quan phụ tá Ban 3 Hành Quân thông báo: Đại Đội 4 có lệnh chuẩn bị hành quân. Toán 5 Thám Sát Delta, đă chuyển công điện báo cáo là vừa khám phá trên đường ṃn Hồ Chí Minh, ở gần ngă ba biên giới, ban đêm có nhiều đoàn xe Molotova và bộ đội Việt cọng từ Lào và Cambodia di chuyển về hướng Đông Đông Nam, trên phần lănh thổ của Nước ta, dẫn đến gần các căn cứ 5 và 6 trong vùng trách nhiệm của Sư Đoàn 22 trú đóng tại Tân Cảnh. Theo yêu cầu của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II. Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù có nhiệm vụ tổ chức phục kích tiêu diệt đoàn xe, bắt sống tù binh để khai thác tin tức. Đại Đội 4 Biệt Cách Dù được giao trách vụ này. Đại Đội Trưởng là Đại Úy Đào Minh Hùng, c̣n tôi là Đại Đội Phó. ![]() Chiều hôm sau, Đại Đội được trực thăng vận vào vùng hành quân. Băi đổ bộ nằm ở hướng Nam khu vực Tam Biên, cách đường biên giới Cambodia về hướng Tây chừng 1 km. Hai Trung Đội 3 và 4 do tôi chỉ huy được đổ xuống trước để an ninh băi, không lâu sau đó là Ban Chỉ Huy Đại Đội và hai Trung Đội 1 và 2. Đại Đội di chuyển chừng cây số th́ trời bắt đầu tối nên dừng quân nghỉ đêm. Sáng dậy, Đại Đội chia ra hai cánh quân, tiến song hành về hướng Đông Bắc để tiếp cận con đường ṃn do Toán 5 Thám Sát phát hiện. Nơi đây chắc hẳn là chốn an toàn của địch, v́ trên đường di chuyển Đại Đội đă nh́n thấy có rất nhiều đường dây điện thoại của chúng giăng đầy chằng chịt dọc theo các cành cây, thỉnh thoảng bắt gặp những căn lều trại và bếp núc đă bị bỏ hoang bên những khe suối, dưới những cụm rừng âm u, hoang ![]() Đi gần nửa ngày đường, vừa tiếp cận con đường ṃn, đang dàn quân bố trí, th́ Tổ khinh binh tiền đạo trông thấy một tốp bộ đội Việt cọng đang di chuyển ngược hướng, nên đă nổ súng tác xạ. Bọn địch dạt qua mé rừng bên phải phản công mănh liệt, nhưng cuối cùng bọn chúng tháo chạy, để lại 05 xác chết tại hiện trường. Có thể đây cũng là đám tiền sát viên của chúng. Sợ lộ mục tiêu sau khi chạm địch, Đại Úy Hùng cho lệnh Đại Đội di chuyển lên hướng Bắc chừng 500 mét th́ dừng lại. Sau khi quan sát địa thế, Đại Đội dàn trải đội h́nh dọc theo con đường ṃn chạy từ Tây sang Đông. Tôi ra lệnh Thiếu Úy Nguyễn Kim Long Trung Đội Trưởng Trung Đội 3 đưa 2 khinh binh ḅ ra giữa mặt đường để chôn các trái ḿn chống chiến xa M.15 dưới các vết xe lăn cũ. Màn đêm xuống dần, rừng êm ắng, lặng yên và mù mịt tối. Tất cả Binh sĩ gh́m súng nằm chờ đợi. Ở một vài khoảng trống trong khu vực, thỉnh thoảng được những trái hỏa châu trên bầu trời tỏa sáng lờ mờ rồi dần dần tối hẳn. Ba tiếng đồng hồ đă trôi qua, không một động tĩnh, nhưng không v́ thế làm nản ḷng các chiến sĩ Đại Đội 4 Biệt Cách Dù, tất cả vẫn gh́m súng trong tư thế sẵn sàng đối phó với địch quân. Tôi nh́n đồng hồ, đă 12 giờ 30 khuya, vừa định lấy bi đông uống một ngụm nước cho tỉnh táo, th́ ầm, ầm, ầm, những tiếng nổ vang dội và chuyển động cả một khu rừng. Ba chiếc xe Molotova của địch đă bị trúng ḿn, nằm lật nghiêng, choáng hết cả mặt đường. Tiếng la hét của đám Việt cọng, tiếng súng Đại liên, XM.16, M.79, xen lẫn tiếng đạn AK.47, CKC đă làm cho sự tịch mịch của khu rừng trở nên náo động, ầm ĩ. Đêm trôi qua rất nhanh. Trời vừa hừng sáng, sau khi kiểm chứng và báo cáo kết quả tổn thất của địch bao gồm: - 15 cán binh cọng sản bị sát hại - 03 xe molotova và rất nhiều quân dụng, lương thực đă bị phá hủy hoàn toàn - Phía ta 5 chiến sĩ bị thương, trong đó có tôi bị một mănh tạc đạn cắt vào cổ tay và 1 Hạ Sĩ Quan tử thương về Bộ Chỉ Huy Hành Quân. Đại Đội khởi sự di chuyển trở lại hướng Tây Nam, vừa băng ngược qua con đường ṃn, di chuyển lên hướng ngọn đồi trước mặt để đến băi triệt xuất, th́ bất ngờ đạn địch từ trên bắn xuống xối xả, nhưng may nhờ sườn đồi có nhiều đá tảng và cây rừng lớn che chắn, nên chỉ làm bị thương 2 Hạ Sĩ Quan Tiểu Đội Trưởng và 5 Binh Sĩ. Đại Đội ở vị thế bất lợi hơn địch, Việt cọng ở trên cao. Đại Đội tấn công lên đồi nhiều đợt mà không lên được, hao hụt không ít. :112: Chuẩn Úy Lương Hữu Yên, Trung Đội Trưởng Trung Đội 2, đă bị tử thương, xác c̣n nằm trên sườn đồi, và không lâu sau đó Chuẩn Úy Trần Thanh Đồng đang tiến quân lên đỉnh đồi ở cánh phải, th́ cũng cùng chung số phận, tôi đă hai lần điều động binh sĩ cố ḅ lên lấy xác, nhưng v́ bị hỏa lực địch bắn càng quét dữ dội, nên không thể, Đại Úy Hùng bảo tôi báo cáo t́nh h́nh chạm địch và tổn thất về Bộ Chỉ Huy, đồng thời khẩn cấp xin máy bay oanh kích đến dội bom vào vị trí địch ở trên đồi cao. Tiếng động Trực Thăng bay ṿng trên khu vực, qua máy truyền tin PRC.25, tôi nghe rơ tiếng Trung Tá Chỉ Huy Trưởng Phan Văn Huấn, đang liên lạc hướng dẫn các Phi Tuần Skyraider, A.37, trên đường bay đến để oanh kích chính xác vào tọa độ mục tiêu của địch. ![]() Sau các Phi tuần oanh tạc th́ Phi Đội Trực Thăng vơ trang xuất hiện, bay ṿng quanh, bắn xối xả, liên hồi xuống trên đầu địch. Vừa chấm dứt các đợt oanh kích, tác xạ, hai cánh quân hai mặt của Đại Đội, theo lệnh của Đại Úy Hùng, đă đồng loạt xung phong, tràn lên chiếm lĩnh đỉnh đồi. Xác Chuẩn Úy Yên và một số Binh sĩ đă được Thiếu Úy Long đưa một Tiểu Đội khiêng vác mang theo. Riêng thi thể Chuẩn Úy Đồng, v́ nằm gần vị trí địch, nên đă không c̣n t́m thấy xác sau khi các chiến đấu cơ đă dội bom yểm trợ khốc liệt.:112::112::1 12: Quân địch hoàn toàn tan ră, bỏ thây răi rác chung quanh đồi, 20 xác đếm được, c̣n một số[color=red'' chém vè” cao bay xa chạy, tịch thu rất nhiều loại vũ khí, máy móc và quân dụng. Vậy rồi, ngay chiều hôm đó, Đại Đội vừa tải thương vừa di chuyển đến băi triệt xuất. Tới điểm hẹn, chờ không bao lâu th́ một Đoàn Trực Thăng đáp xuống thấp. Từng Trung Đội đưa xác tử sĩ và thương binh lên trước, xong thay nhau nhảy lên các chiếc kế tiếp. Lần lượt Đại Đội đă được bốc đưa về lại Căn Cứ Hành Quân ở Phi Trường Kontum. ![]() Cách hành quân của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù thường như thế. Thả các Toán Thám Sát vào các mật khu của địch, thông thường là ở những vùng dọc theo biên giới, núi non hiểm trở, ngoài tầm tác xạ, yểm trợ của Pháo Binh, để khám phá các căn cứ, kho tàng, địa đạo và lực lượng của Việt cọng. Nhưng, nếu cần thiết thanh toán mục tiêu, hành quân tiêu diệt, phục kích, th́ các Đại Đội xung kích sẽ đảm nhận trách nhiệm. Đây cũng là một trong hai cuộc phục kích hiếm hoi trong ḷng địch, nơi các mật khu bất khả xâm phạm của bọn chúng, trước đây vào năm 1968 tại thung lũng Ashau, mà chỉ có lực lượng duy nhất là Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù mới có thể lập nên thành tích, công trạng lịch sử này. Kontum là đây ! Tam Biên là đây ! Ḷng chúng tôi vui. Và trong niềm vui trở về, tôi bỗng nhớ một bài hát: “ Đường lên núi rừng ! Sao hăi hùng ”. Hăi hùng là tự người khác đem đến cho ta, từ con người, không phải từ thiên nhiên. Người yêu Quê Hương th́ không thấy Quê Hương ḿnh hăi hùng bao giờ ! Cựu Đại Úy Biệt Cách Dù Lê Đắc Lực. https://dongsongcu.wordpress.com |
ANH HÙNG QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG H̉A , TRUNG TÁ LÊ BÁ B̀NH
![]() ANH HÙNG QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG H̉A , TRUNG TÁ LÊ BÁ B̀NH Trung Tá Lê Bá B́nh năm 1972 là TĐT Tiểu Đoàn 3 TQLC VNCH. Đại Úy John Ripley lúc đó là Cố Vấn TĐ (sau lên Đại Tá) kể lại, trong trận đánh ở Thị Xă Đông Hà, Ông ĐU hỏi TrT B́nh: "Nếu giặc tràn qua được th́ sao ?" TrT B́nh trả lời : "Nếu TĐ 3 TQLC trong đó có tôi và anh không c̣n nữa th́ cộng quân mới có thể vào Thị Xă Đông Hà". Năm 1972 mở đầu cho cuộc tổng tấn công trong chiến dịch Nguyễn Huệ, cộng quân xua 20.000 lính cùng hàng trăm thiết giáp T54, PT76 và đại pháo tấn chiếm Đông Hà, Quảng Trị. Thị Xă Đông Hà lúc đó được trấn giữ bởi TĐ3 TQLC, quân số gồm khoảng 700, cùng Thiết Đoàn 20, có phi pháo và hải pháo yểm trợ. TrT B́nh quyết định giật sập cầu Đông Hà ḥng cản đường tiến của xe tăng cộng quân. Sau khi cầu sập, nhờ con sông Thạch Hăn làm rào cản thiên nhiên, Ông và các chiến sỹ TĐ3 TQLC đă giữ được Thị Xă trong hơn một tháng, sau đó bàn giao trách nhiệm lại cho LĐ5 BĐQ. Trong trận này Ông bị thương, quân số TĐ bị thiệt hại hết phân nửa. Trung Tá Lê Bá B́nh tốt nghiệp Khóa 12 Trường Sỹ Quan Trừ Bị Thủ Đức năm 1962, t́nh nguyện về TQLC, chức vụ sau cùng: - Tiểu Đoàn Trưởng TĐ6 TQLC. Sau ngày mất nước Ông đi tù cải tạo khổ sai 12 năm, qua Mỹ theo diện HO năm 1991, hiện đang sống ở San Jose, CA. Ông là nguồn cảm hứng cho Ông Richard Botkin viết cuốn sách Ride The Thunder sau được làm thành phim mang cùng tên. Ông vừa mới mất tại Mỹ lúc 1g40 15/1/2021. Xin chào vĩnh biệt Đại Bàng Bắc Giang.:112: Nguyễn Quốc " RIDE THE THUNDER - CƯỠI NGỌN SẤM - NGƯỜI THẬT VIỆC THẬT VỀ CHIẾN TRANH VIỆT NAM TRẢ SỰ THẬT CHO LỊCH SỬ Được hỏi lư do viết thêm một cuốn sách rồi lại làm thêm một cuốn phim về Việt Nam, tác giả Richard Botkin nhắc lại câu nói bất hủ của cố Tổng Thống Nixon: “ Không biến cố nào trong lịch sử Hoa Kỳ bị hiểu lầm hơn là chiến tranh Việt Nam. Cuộc chiến này trước đây bị tường tŕnh sai lệch, và giờ đây được nhớ lại lại một cách sai lạc.” “Gặp và nghe chuyện của Trung Tá Lê Bá B́nh là chuyện t́nh cờ. Nhưng từ đó, tôi đă nghiên cứu nhiều vô cùng, đọc biết bao nhiêu tài liệu, cả trăm cuốn sách, và nói chuyện với rất nhiều người, để cuối cùng phải đi đến kết luận là : " Đa số sách viết sai về cuộc chiến này, sai về dữ kiện lịch sử, về con người, người dân, người lính VNCH và người cựu chiến binh Hoa Kỳ.” “Tôi muốn thay đổi những nhận thức và kư ức sai lạc đó.” Trả lời câu hỏi ông muốn thay đổi nhận thức ǵ, đâu là sự thật ? Ông Richard Botkin nói: “ Những người nói miền Nam thất thủ v́ quân sĩ VNCH thiếu can trường, c̣n cựu binh Hoa Kỳ chỉ là những người trai trẻ bị tổng động viên, không có lư tưởng, là không hiểu đúng lịch sử. Người lính VNCH rất can trường, chiến đấu trong danh dự, và bạn họ, các chiến binh Hoa Kỳ xả thân v́ yêu nước, v́ chia sẻ lư tưởng chống cộng sản.” “Sự thật những người lính quân đội Việt Nam Cộng Ḥa là những người quả cảm. Không ai muốn ngừng chiến đấu cả. Miền Nam Việt Nam đă gần đoạt được chiến thắng rồi. Nhưng họ phải bỏ súng v́ Hoa Kỳ quyết định không hỗ trợ, không viện trợ nữa, trong khi miền Bắc vẫn tiếp tục được Nga và Tàu hỗ trợ.” C̣n nhiều sự thật nữa mà ông Richard Botkin muốn đưa lên màn ảnh. Sự thật về sự tàn ác của bên thắng cuộc tại những trại tù cải tạo. Sự thật về những người vợ có chồng đi cải tạo vừa bươn chải lo cho con, vừa đối phó với mọi khó khăn của cuộc sống, vừa bóp chắt thăm nuôi chồng, vừa ṃn mỏi đợi chờ, cho đến ngày chồng hoặc được thoát khỏi ngục tù hay được tin chồng đă chết. Ông Richard Botkin cho biết cũng v́ mục đích trả lại sự thật cho lịch sử mà ông muốn biến cuốn : “Ride the Thunder : A Vietnam War Story of Honor and Triumph” thành phim. Tuấn Đạt |
NGƯỜI LÍNH GIÀ (Cọp Nhớ Rừng)
NGƯỜI LÍNH GIÀ (Cọp Nhớ Rừng) Người Lính Già, nửa đêm nằm trăn trở Nhớ trường sơn, như thể hổ nhớ rừng Thèm điếu thuốc, đốt lên trong nón sắt Đốt đêm đen, thêm hơi ấm vào ḷng ***** Người Lính già, nửa đêm nằm không ngủ Nhớ anh em, nhớ đồng đội ngày xưa nhớ trà nóng, nửa đêm nằm dưới hố nấu vội vàng, bằng "C4" chuyền tay ***** Người lính già, nửa đêm trong giấc ngủ Mơ chập chờn, bạn gọi lúc nửa đêm Ngồi bật dậy, tay quơ “M 16” Súng c̣n đâu, đâu c̣n Súng mà t́m ***** Người lính già, nửa đêm t́m giấc ngủ Cố quên đi, những h́nh ảnh ngày xưa Quên sao được, nào “Triệu Phong” “ Ái Tử” Cùng “Hương Điền”, Hương lộ ba số “5” ***** Người Lính Già , nửa đêm nằm không ngủ Nhớ “Trị Thiên”, nhớ tuyến lửa địa đầu Nhớ “Mỹ Chánh”, nơi chiếc cầu bị găy Bởi v́ đây, là chiến tuyến cuối cùng ***** Người Lính Già, cố quên càng thêm nhớ Nhớ “Hải lăng”, nhớ “Thạch Hăn”, “Điền Môn” Nhớ nhiều lắm, nhớ hoài không kể hết Nhớ ḍng sông, toàn xác với lục b́nh… ***** Người lính Già nửa đêm nằm trăn trở Mơ trong đêm, tiếng pháo nổ đ́ đùng Nhớ nhiều lắm, ánh hỏa châu soi sáng Dẫn đường về, sau trận đột kích đêm ***** Ngày tháng đến, người Lính Già thôi nhớ Thời gian trôi, là Phuơng thuốc thần tiên không ai gọi, nữa đêm người tỉnh giấc Chỉ c̣n chăng, trong t́m thức Cọp Già… ***** Tuấn TT "C4" một loại thuốc nổ TNT ở trong ruột quả Ḿn claymore, lính thường lấy bớt ra để nấu café hay nấu trà , khi lấy bớt sức công phá sẽ bị giảm thiểu, nhưng ngộ biến tùng quyền. http://tqlcvn.org |
THĂM LẠI ĐỒI CHARLIE : NGHE NGƯỜI ĐI , HỒN Ở LẠI !
THĂM LẠI ĐỒI CHARLIE : NGHE NGƯỜI ĐI , HỒN Ở LẠI ! Trung Tá Nguyễn Đ́nh Bảo - người ở lại Charlie (phải), và Đại Úy Đoàn Phương Hải (trái) - Nguồn h́nh Internet ![]() Chúng tôi chọn những ngày cuối năm để leo lên ngọn đồi lịch sử Charlie, bởi vào lúc này thời tiết không quá khắc nghiệt để lần ṃ được đến nơi. Mang theo trong chuyến đi, những thứ quan trọng nhất là rượu, hoa và nhang : Quà cho những người mà thế hệ chúng tôi chưa từng biết mặt. Máu xương người Việt… Khác với việc thắp nhang ở nghĩa trang quân đội Biên Ḥa, nay nằm trong địa phận tỉnh B́nh Dương, đường đi nghĩa trang không khó nhưng lại phải chịu sự ḍm ngó và hạch hỏi của nhóm gác cổng do công an địa phương cắt đặt, c̣n đường đi đến đồi Charlie chỉ có núi rừng, vài tấm bảng chỉ đường phủ đầy bụi đỏ. Thỉnh thoảng trên đường có bắt gặp vài người dân tộc Jarai hay Sedang. Charlie là một chóp đồi cao nằm giữa ba huyện Sa Thầy, Đắk Tô và Ngọc Hồi, thuộc tỉnh Kon Tum. Đường đi đến đó cheo leo và trắc trở. Chúng tôi đoán là trước năm 1975, hầu hết cuộc chuyển quân đều dựa trên không vận mới có thể nhanh và an toàn. Người Việt trong vùng gọi là Sạc-Li, dựa theo âm tiếng Anh, mà trong chiến tranh Việt Nam, cứ điểm cao 900m so với mặt nước biển được quân đội đặt tên, tạo thành tuyến pḥng thủ và quan sát khu vực ngă ba Đông Dương. ![]() Nơi đây c̣n là vùng bảo vệ cho sân bay quân sự Phượng Hoàng và bản doanh bộ Tư lệnh Hành quân Sư đoàn 22 Bộ binh ở Tân Cảng của miền Nam. Việc đặt tiểu đoàn 11 nhảy dù Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa trấn giữ ở đồi Charlie là một sự khó chịu vô cùng đối với quân Bắc Việt, v́ mọi cuộc chuyển quân ở ngă ba Đông Dương hay từ Bắc vào, qua ngă này, đều có thể bị phát hiện. Cho nên , trong cuộc tổng tiến công năm 1972 của quân đội Bắc Việt, cùng với một phần của Mặt trận Giải phóng miền Nam, đồi Charlie là mục tiêu cần phải bị xóa sổ. Cái gai cần phải nhổ cho đường tiến quân thuận tiện từ Tây Nguyên xuống đồng bằng miền Nam. Mùa hè 1972, người ta gọi đó là mùa hè đỏ lửa. Đỏ lửa là bởi sự nóng bức của thiên nhiên, cộng thêm súng đạn bay khắp nơi trong một cuộc tương tàn nhân danh giải phóng của chủ nghĩa cộng sản. Không có số liệu chính xác nào nói về thương vong của cả hai bên ở đồi Charlie, nhưng dựa trên phần sử liệu được công bố th́ phía Việt Nam Cộng Ḥa có : - Tiểu đoàn 11 Song kiếm Trấn ải (tạm tính khoảng hơn 600 người) đối đầu với quân của : - Sư đoàn 320 Bắc Việt (tạm tính khoảng gần hơn 7,000 người), chưa kể phía lực lượng Mặt trận Giải Phóng Miền Nam không được công bố, th́ con số ít nhất thiệt mạng sau khi máy bay B-52 bỏ bom rải thảm tái chiếm, những thanh niên Việt Nam của cả hai bên thiệt mạng, ít ra cũng phải là 4,000 đến 5,000 người trong trận đó. Điều đó, có nghĩa rằng chuyến đi mất gần ba tiếng di chuyển lên đến đỉnh đồi của chúng tôi, nơi đâu cũng có máu xương người Việt.:112: Từng viên đá, từng khúc quanh, từng ngọn cây… chắc đều giữ lại phần bí mật nhất chưa bao giờ được kể lại về số phận không chỉ của từng con người, mà của một dân tộc phải chịu điêu linh v́ cuộc chiến tranh màu lư tưởng cộng sản. ![]() Ngọn đồi Charlie xanh mướt và lặng lẽ giữa thông xanh, trời mây và gió se sắt lạnh. Đầu ngơ vào cầu treo dẫn đến chân đồi, chính quyền địa phương đến hôm nay cũng chưa dám ghi rơ ràng về cuộc chiến này, mà chỉ đơn giản là : “ Di tích lịch sử của điểm cao 1015 Charlie và 1049 Delta ” - Khác với giọng điệu thường đắc thắng và kiêu ngạo sau 1975, khi mà những di tích thường có thêm các tấm bia nợi ca ngợi sự anh dũng của quân đội Bắc Việt. Nhưng ở Charlie, mất mát quá lớn có thể là điều nhà cầm quyền ngại ngùng không muốn nhắc tới. ![]() Hàng năm không chỉ có những chuyến xe từ Bắc vào Charlie để viếng người thân sinh Bắc tử Nam, mà chính người miền Nam đứng trên ngọn đồi ấy cũng ngậm ngùi : Ai, điều ǵ… đă xô đẩy khiến cho máu xương Việt Nam chia ĺa và chôn vùi thảm khốc đến vậy ? - “ Đi thăm ông Trung tá Bảo à ?” Chúng tôi đi xe máy, sáu người chở nhau và tận dụng mọi sức lực tay chân để có thể đến đỉnh đồi, trước khi trời sụp tối. Có đoạn phải vừa nổ máy xe, vừa đẩy, có đoạn vứt bớt đồ lại v́ quá mệt, mang vác không nổi. Đoạn đường vừa tạm hết lầy sau mùa mưa, lại khô, trơn và nhiều ổ gà và đá vụn. Mọi người trong đoàn có lúc mệt đến mức hoa mắt, tay chân bủn rủn, thở không được v́ không khí ngày càng loăng. Anh B., người khỏe nhất trong nhóm, có lúc đứng lại chắp tay và cầu nguyện : - “ Đă đến được đây, mấy anh phải giúp tụi em đến nơi thắp hương mời rượu cho mấy anh ”. Đă 45 năm rồi. Những ngôi mộ, nếu có, th́ giờ cũng đă um tùm cỏ lau. Thịt xương cũng đă là rêu bụi. Chiến địa đă trở thành rừng xanh bao phủ trên núi, ôm kín mọi nỗi ḷng. :112: Đó là chưa nói nhiều thế hệ đă đi qua, không biết, hoặc bị tuyên truyền bóp méo tin tức về những người lính Việt Nam Cộng Ḥa ở đây. Vậy mà mấy lần, gặp một người Jarai hay Sedang, thấy chúng tôi hồng hộc thở trên đường, họ cười thân thiện và hỏi : - “ Đi thăm ông Trung tá Bảo à ?”. Lạ lùng. Sao họ lại biết Trung tá Bảo nhỉ ? Thậm chí bài hát nổi tiếng của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh có tên Người ở lại Charlie cũng không nhắc ǵ về tên của người chỉ huy tiểu đoàn Song kiếm Trấn ải này. Dù sau khi tử trận ở Charlie, Trung tá Nguyễn Đ́nh Bảo (1936-1972) được truy phong đại tá, nhưng dân trong vùng vẫn nhớ về một vị Trung tá, giữa hàng ngàn người đă gửi lại h́nh hài ở nơi này.:112: NGƯỜI Ở LẠI CHARLIE Trận chiến Charlie diễn ra trong một tuần, dữ dội. Quân đội Bắc Việt được điều động tiến vào Nam, số trang bị và nhân lực được kể là gấp sáu lần quân Việt Nam Cộng Ḥa trấn giữ. Một người lính miền Nam phải chống cự với 6-7 người lính miền Bắc. Pháo kích và tiến công biển người diễn ra cấp tập trong ba ngày đầu. Đạn pháo kích đă khiến Trung tá Nguyễn Đ́nh Bảo tử trận vào ngày thứ hai (12-4-1972), các chỉ huy nối nhau thay quyền kiểm soát cũng tử trận liên tục.:112: Không chỉ tấn công mà mục tiêu của sư đoàn 320 c̣n là tiêu diệt cho được tiểu đoàn Song Kiếm Trấn Ải (theo nhà văn Phan Nhật Nam th́ sau trận đồi Charlie, tiểu đoàn này mất 400 quân nhân) nên quân Bắc Việt bao vây và chặn đường mọi ngă. Thậm chí súng pḥng không Bắc Việt c̣n được chuẩn bị để ngăn không cho trực thăng tiếp viện. Sau khi không c̣n đạn dược và lương thực, những quân nhân Việt Nam Cộng Ḥa c̣n lại đă rút lui, nhường đường cho tốp máy bay B-52 bỏ bom hủy diệt toàn bộ phần Sư đoàn 320 đang tràn lên ở đây. ![]() Charlie phút chốc thành b́nh địa, :112:kể cả những bộ đội từ Bắc vào, cho đến những thân xác c̣n nằm lại của những quân nhân Việt Nam Cộng Ḥa. Mọi nỗ lực tấn công hao tổn về con người và súng đạn của phía quân chính quy Bắc Việt hoàn toàn thất bại. Có lẽ v́ vậy mà trong wikipedia Việt ngữ nói về Sư đoàn 320, chiến sử Charlie đă không được ghi lại cũng như cũng cố ư không nhắc tới, trong các mục viết ca ngợi danh tiếng của Sư đoàn này. Nói về trận đánh đó, vùng đất đó, nhà văn Phan Nhật Nam có viết trong bài Người ở lại Charlie: - “Bi kịch không riêng đối với những người lính Tiểu Đoàn 11 Dù, qua lần đi khuất của Cố Đại Tá Nguyễn Đ́nh Bảo – Nhưng cũng là bi kịch của mỗi thân phận Người Miền Nam hiện thực qua hy sinh xả kỷ của Người Lính, sự chịu đựng âm thầm của Người Vợ-Đứa Con Người Lính. Nỗi Đau kia hằng mới v́ Nỗi Đau Luôn Là Nỗi Đau Chung, cùng với những dấu tích kỳ diệu miên viễn của T́nh Yêu trong đời sống trần thế giới hạn của nhân sinh”. (trích) Đồi Charlie, Một Địa Danh ghi vào Quân Sử VNCH cùng với Tiểu Đoàn 11 Dù "Song Kiếm Trấn Ải" của Đại tá Nguyễn Đ́nh Bảo ![]() Cuối năm 1972, quân đội Việt Nam Cộng Ḥa có tổ chức dựng bia tưởng niệm trên đỉnh đồi để tưởng các quân nhân đă hy sinh trong cuộc chiến, và ghi nhớ nơi tử trận của Đại tá Nguyễn Đ́nh Bảo. Nhưng rồi sau 1975, chính quyền địa phương theo lệnh từ Hà Nội đă cho đập phá tất cả. San bằng mọi thứ. Nhưng đáng ngạc nhiên, là chính nhà cầm quyền Bắc Việt cũng không hề dựng bất kỳ bia tưởng niệm nào cho hàng ngàn người lính của họ đă thiệt mạng ở nơi này. Măi cho đến giữa thập niên 1990, những đoàn thân nhân từ miền Bắc vào để viếng, nơi con em của họ đă để lại tuổi xuân trên ngọn đồi Charlie mới góp tiền cùng nhau dựng một bàn thờ, hương khói. C̣n về những người miền Nam, không biết ai đó đă ùn một đống đất, tựa như một g̣ nhỏ, hay có thể là một nấm mộ tượng trưng cho những ai lên thắp hương cho Đại tá Nguyễn Đ́nh Bảo và những quân nhân Việt Nam Cộng Ḥa. Và dù rất khiêm tốn, không có bia hay chữ ghi chú nào, nhưng mọi người đều biết nếu thắp nhang cho những người miền Nam, th́ đến đó. Miếu thờ các quân nhân tiểu đoàn nhảy dù 11, quân lực VNCH được người thân dựng lên ngay trận địa đồn trú của họ 46 năm trước, cạnh điểm cao Charlie. Ảnh: Mai Thanh Hải ![]() GIẢI OAN CHO CUỘC BIỂN DÂU NẦY ! Khi cả nhóm loay hoay trên ngọn đồi, lúc chiều xuống đậm rồi, vẫn không biết là nơi nào để hướng đến, th́ chính một người trẻ tuổi địa phương bất ngờ có mặt xuất hiện trên đó chỉ giúp, “ nơi của ông Bảo ” , hay nơi để viếng những người cùng ông ngă xuống, cũng vậy. Hương bay theo gió, những cánh hoa vàng phất phơ trên cỏ. Tôi chợt nhớ đến phần cuối trong Đồi gió hú của Emily Bronte, rằng : - “ Dưới những cành hoa phất ấy, những người nằm dưới nấm mộ ấy có thật sư yên nghỉ không ?”. Không có ai trả lời tôi suy nghĩ đó, chỉ có tiếng gió rít qua từng hồi như tiếng thở than. Con đường xuống núi nguy hiểm và khó khăn hơn cả lúc đi lên, v́ chung quanh là bóng tối, đường lầy với cát khô và đầy khúc quanh đốc xuống thẳng đứng. Nhưng bên cạnh chuyện việc lo lắng đi ra, ai cũng mang theo một cảm giác kỳ lạ. Trận chiến Charlie lại sống động như mới hôm qua, những người Việt Nam nổ súng vào nhau như vẫn c̣n nghe tiếng đạn bay. Rừng núi âm u như vẫn chực chờ những cái chết vô định. Chúng tôi cảm nhận được hết mọi thứ và ngồi lại, kể với nhau khi ra đến bên ngoài. Kư ức thường rồi dần sẽ phai mờ, sự khốc liệt của chiến tranh, máu và nước mắt rồi cũng khô cạn. Nhưng anh hùng tử, khí hùng bất tử, cái chết v́ chính nghĩa bảo vệ miền đất tự do của những thanh niên miền Nam Việt Nam quyết bảo vệ vùng đất của ḿnh vẫn được nhớ đến, vẫn phảng phất trong hương gió núi vùng Dakto, trong lời hát, bất ngờ hiện ra vào chiều sẩm tối ở đồi Charlie, khiến chúng tôi gai người – Sự linh thiêng của núi sông là đây, của cha anh là đây, của nghịch cảnh tương tàn v́ tham vọng cơ đồ là đây . ! ![]() Đi trong đoàn có hai sư thầy trẻ, vừa là bạn tín ngưỡng, vừa là người đồng chí hướng. Nhang được đốt lên, hoa được đặt xuống mặt đất bằng. Chai rượu trắng được rót xuống cùng những lời cầu nguyện khác nhau. Anh V., đứng thẳng dáng gầy, tay chắp nhang ngang mày im lặng. Sự tôn nghiêm của anh làm hơi rượu như nồng hơn, sẻ chia như những vần thơ của Tô Thùy Yên : Ta về như lá rơi về cội Bếp lửa nhân quần ấm tối nay Chén rượu hồng đây xin rót xuống Giải oan cho cuộc biển dâu này Giờ th́ không có ai là kẻ thù, cần diệt trừ và không có nơi chốn nào, cần phải bị giải phóng. Chỉ có những con người nằm lại với nhau, xương thịt nằm lại trên cùng một mảnh đất, cùng ngửa mặt lên bầu trời đêm của ngọn đồi Charlie để thấy thương đau là tên gọi chung của tất cả. Tất cả thịt xương Việt Nam đă đến, đă hư không, chỉ c̣n linh hồn ở lại. Chắc chắn rồi chúng tôi sẽ trở lại, rót rượu cho mọi người, không phân biệt là ai. V́ như có một lời hứa âm vang trong tim với những con người đă đến, thân xác ra đi nhưng linh hồn măi măi ở lại Charlie. Những người anh em Việt Nam đă chết trên đất nước, đem lại những điều quư giá.:112: Có những người dạy cho thế hệ sau biết chính nghĩa quốc gia là ǵ, và có những người lại dạy cho chúng tôi biết : Cuộc tương tàn ấy đau đớn thế nào trong tham vọng chủ nghĩa. ![]() Tuấn Khanh - RFA Blog |
LIÊN ĐOÀN 81 BIỆT CÁCH DÙ & CUỘC HÀNH QUÂN DELTA 51
2 Attachment(s)
Trong cuộc hành quân Delta 51, theo tổ chức của Lực Lượng Đặc Biệt (LLĐB) Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH), Trung Tâm Huấn Luyện Hành Quân Delta đảm nhận trách nhiệm hoạch định chương tŕnh nhảy toán xâm nhập vào mật khu địch trong rừng sâu, khám phá các căn cứ của địch quân và theo dơi sự chuyển quân của bọn cộng sản Bắc Việt (CSBV) từ đường ṃn Hồ Chí Minh (HCM) xâm nhập vào chiến trường Trị Thiên, vùng Tam Biên (biên giới Việt Nam, Cam Bốt, và Lào), Lộc Ninh, B́nh Long, Tây Ninh… để xâm lăng Miền Nam Việt Nam Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù (BCDN) gồm 6 đại đội xung kích và một đại đội chỉ huy, mỗi đại đội có đủ khả năng tấn công và tiến chiếm các mục tiêu do các toán Delta chỉ tọa độ, hoặc mở những cuộc tấn công bất thần vào các cứ điểm bọn cộng sản Bắc Việt. Tiểu đoàn này và Trung Tâm Huấn Luyện Hành Quân Delta cũng có hai đơn vị trừ bị của Lực Lượng Đặc Biệt với nhiệm vụ giải tỏa áp lực địch trong trường hợp một trại Biên Pḥng bị đối phương bao vây. (Giữa năm 1970, Lực Lượng Đặc Biệt được lệnh giải tán. Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù sát nhập với Trung Tâm Hành Quân Delta để trở thành Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù). Toán B52 Lực Lượng Đặc Biệt (LLĐB) Hoa Kỳ có nhiệm vụ yểm trợ trực tiếp cho Trung Tâm Huấn Luyện Delta về quân trang, quân dụng, vũ khí cũng như các nhu cầu cho kế hoạch huấn luyện và thám sát hành quân Delta. Để đáp ứng nhu cầu hành quân theo kế hoạch Delta, toán B52 Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ tuyển mộ, trang bị, trả lương cho 12 toán thám kích Tiền Phong cũng như hai đại đội Biệt Kích Quân (Dân Sự Chiến Đấu cải danh) người Việt sắc tộc Nùng và người Việt gốc Miên. Hai đại đội Biệt Kích Quân này có nhiệm vụ pḥng thủ doanh trại cũng như tham gia chiến đấu trong các cuộc hành quân Delta. Phi Đoàn 281 Trực Thăng Nhảy Dù là một phi đoàn chuyên thả toán và bốc các toán đă hoàn tất công tác rút khỏi vùng hành quân. Phi đoàn được trang bị những chiếc thang giây và những sợi dây tḥng ḷng để các toán Delta dễ dàng lên xuống trong một vùng không có băi đáp. TUẦN ĐẦU CUỘC HÀNH QUÂN Sáng ngày 6 tháng 4/1970, toàn bộ lực lượng tham chiến được vận chuyển về Cam Lộ, qua Cùa và đến Mai Lộc thuộc tỉnh Quảng Trị đi về hướng Tây. Hai sĩ quan chỉ huy cuộc hành quân này là Thiếu Tá Phan Văn Huấn, chỉ huy trưởng của Trung Tâm Huấn Luyện và Hành Quân Delta, và Thiếu Tá Trần Phương Quế, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù. Tại Mai Lộc có trại Lực Lượng Đặc Biệt nằm trên một ngọn đồi cao, chung quanh là núi rừng. Căn cứ hành quân Delta được thiết lập và bố pḥng bên phía trái của trại Mai Lộc. Trước cổng trại có một phi trường dă chiến cho phi cơ loại nhẹ có thể đáp xuống được. Những căn lều được dựng lên song song với việc đào giao thông hào, hố cá nhân chiến đấu, hầm chống pháo kích. Ngày 7 tháng 4/1970, Phi Đoàn 281 trực thăng Hoa Kỳ đáp xuống Mai Lộc, các hoa tiêu và xạ thủ phi hành cũng dựng lều trong căn cứ hành quân. Sau phần thuyết tŕnh của toán trưởng, các cảm tử quân lần lượt lên phi cơ để tiến hành xâm nhập, một chiếc trực thăng Command And Control (CNC) do Thiếu Tá Huấn chỉ huy và cố vấn Hoa Kỳ bay trên cao, một trực thăng cấp cứu, 2 trực thăng vơ trang hộ tống và chiếc trực thăng cuối cùng dành cho toán cảm tử quân xâm nhập vào vùng địch. Trong khi đó, các đại đội Biệt Cách Nhảy Dù tuần tự lên phiên ứng chiến để kịp thời giải cứu toán Delta trong trường hợp khẩn cấp, hoặc khai thác các mục tiêu do toán Delta t́m thấy. Những ngày kế tiếp, toán Delta và toán Thám Kích Tiền Phong được đưa vào vùng hành quân. Chiều ngày 12 tháng 4/1970, một trực thăng CNC do Trung Úy Hoàng Xuân Cường bay đi liên lạc với các toán, v́ bay quá thấp để quan sát nên Cộng quân đă bắn trúng phi cơ. Phi cơ nổ tan, tất cả phi hành đoàn và Trung Úy Cường mất liên lạc. Ngày 13 tháng 4, Đại Đội 2 Biệt Cách Nhảy Dù do Đại Đội Trưởng Trần Duy B́nh chỉ huy được tung vào vùng hành quân với hy vọng cứu thoát được những người may mắn sóng sót. Khi cánh quân của Đại Đội 2 vừa nhảy vào khu vực phi cơ bị trúng đạn ở phía Nam Lao Bảo th́ một cuộc chạm súng dữ dội đă xảy ra với một tiểu đoàn Cộng Sản Bắc Việt. Trận chiến kéo dài từ 9 giờ sáng đến 4 giờ chiều, nhiều lần Bộ Chỉ Huy Hành Quân hỏi xem Đại Đội 2 có cần tăng viện không nhưng Đại Đội Trưởng Trần Duy B́nh đều trả lời không cần thiết. Đại Đội 3 Biệt Cách Nhảy Dù do Đại Úy Phạm Châu Tài chỉ huy ở căn cứ hành quân được lệnh sẵn sàng nhảy vào khu vực hành quân bất cứ lúc nào. Tin từ Đại Đội 2 cho biết Cộng quân đă sử dụng súng cối 82 ly pháo vào vị trí đại đội. Mười giờ đêm, tiểu đoàn trưởng là Thiếu Tá Trần Phương Quế gọi Đại Úy Tài vào Trung Tâm Hành Quân, ông cho biết t́nh h́nh của Đại Đội 2 rất trầm trọng, đang bị Cộng quân bao vây. Ông chỉ định Đại Đội 3 do Đại Úy Tài chỉ huy nhảy vào trận địa để giải vây cho đại đội bạn. Trên bản đồ hành quân, Thiếu Tá Quế chỉ cho Đại Đội Trưởng Đại Đội 3 biết vị trí đổ quân. Trong khi đó, tại trận địa, cố vấn Hoa Kỳ nhảy theo Đại Đội 2 đă gọi phi tuần phản lực từ Hạm Đội 7 vào oanh kích chính xác vào các vị trí mà Cộng quân đang khai triển đội h́nh để bao vây đại đội Biệt Cách Nhảy Dù nói trên. Từng trái bom Napalm được thả vào vị trí của địch quân tạo nên những cuộn lửa khổng lồ và những tiếng dội thật lớn. Lợi dụng sương mù đang phủ xuống những vùng đồi núi ở phía Nam Lao Bảo, và sự không yểm của phi tuần khu trục làm cho đối phương kinh hoảng, Đại Đội Trưởng Trần Duy B́nh hướng dẫn Đại Đội 2 vượt thoát được ṿng vây của Cộng quân. Đến 6 giờ sáng ngày 14 tháng 4, Đại Đội 2 đă t́m được một băi đáp tương đối tốt. Đúng 7 giờ sáng, 10 chiếc trực thăng của Phi Đoàn 281 sẵn sàng cất cánh tại Mai Lộc. Từ vùng chiến trận, Đại Úy B́nh yêu cầu xạ kích quanh băi đáp trước khi trực thăng đáp xuống bốc Đại Đội 2 trở về. Chín giờ 15 phút, chiếc trực thăng thứ mười với những chiến binh Biệt Cách Nhảy Dù đáp xuống Mai Lộc. Đại Đội 2 mang về một số vũ khí địch gồm một khẩu súng cối 82 ly, 2 khẩu trung liên và 8 súng AK, phần đại đội có 6 chiến binh tử thương, 12 bị thương được đưa về căn cứ. Ngày 15 tháng 4, Đại Đội 3 Biệt Cách Nhảy Dù của Đại Úy Phạm Châu Tài được điều động nhảy vào vùng giao tranh để kiểm soát chiến trường. Khi đại đội có mặt tại trận địa th́ Cộng quân đă rút đi, để lại vô số xác chết. Biệt Cách Nhảy Dù bắt được một thương binh Cộng Sản Bắc Việt. Thẩm vấn tại chỗ, thương binh Cộng quân này khai quê quán tại Yên Bái, xâm nhập qua Bến Hải và được bổ sung cho D5 thuộc Công Trường 316. Lục soát trận địa, Đại Đội 3 Biệt Cách Nhảy Dù thu thêm 2 khẩu B-40, 4 khẩu AK-47, và 2 khẩu CKC. Đến trưa ngày 15 tháng 4/1970, Đại Đội 3 rời vùng hành quân, mang theo chiến lợi phẩm và 6 tử thi của các chiến binh Đại Đội 2 Biệt Cách Nhảy Dù. Từ ngày 16-4-1970, các đại đội Biệt Cách Nhảy Dù lần lượt được đưa vào vùng hành quân, mỗi ngày đều có các phi vụ thả các toán xâm nhập và bốc các toán đă hoàn tất công tác lại căn cứ. Vào thời gian này, các toán Delta nhảy đơn độc, không có có vấn Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ như trước, chỉ có cấp đại đội mới có cố vấn nhảy theo. Các cố vấn đại đội được phân nhiệm vụ hướng dẫn phi tuần oanh kích của Không lực Hoa Kỳ yểm trợ cho cuộc hành quân. Ngày 21 tháng 4, Đại Đội 4 Biệt Cách Nhảy Dù do Đại Đội Trưởng Đào Minh Hùng chỉ huy được thả xuống khu vực Khe Sanh nơi Trung Đoàn 26 Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) Hoa Kỳ và Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân (BĐQ) đă tử chiến với hai sư đoàn Cộng Sản Bắc Việt trong 10 tuần lễ ṛng ră vào mùa Xuân Mậu Thân 1968. Sau khi Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ rút khỏi Khe Sanh vào giữa năm 1968, khu vực này đă được bỏ ngỏ, trở thành vùng oanh kích tự do của Không quân Việt-Mỹ. Hai năm sau, các chiến binh của Đại Đội 4 Biệt Cách Nhảy Dù đă xâm nhập vào Khe Sanh để thám sát mục tiêu này, bấy giờ Khe Sanh đă hoang tàn với cỏ tranh, cỏ lau phủ đầy. Hai ngày sau, toán Delta do Biệt Cách Nhảy Dù Lưu Huỳnh chỉ huy nhảy vào Khu Phi Quân Sự (DMZ), khám phá dấu vết chuyển quân của Cộng quân, và bắt sống được một giao liên (danh từ Cộng Sản để chỉ người đưa đường và liên lạc). ĐẠI ĐỘI 3 BIỆT CÁCH NHẢY DÙ PHỤC KÍCH CỘNG QUÂN Ở SAVANAKHET, LÀO Ngày 25 tháng 4, cuộc hành quân bước vào giai đoạn 2, Đại Đội 1 Biệt Cách Nhảy Dù đă xâm nhập và thọc sâu mũi xung kích vào căn cứ địa của Cộng Sản Bắc Việt ở Ba Ḷng, khám phá một bệnh xá của địch, bắn hạ một số Cộng Sản Bắc Việt thuộc đội bảo vệ mật khu này, bắt một quân y sĩ Cộng Sản Bắc Việt và tịch thu nhiều dược phẩm do Trung Cộng sản xuất. Tiếp đến, ngày 1 tháng 5 năm 1970, toán 2 Delta do chiến binh Trương Việt Lâm làm trưởng toám đă khám phá một con đường chiến lược chạy dài từ những dăy núi dọc biên giới Lào-Việt và xuyên thẳng về hướng Lao Bảo. Con đường chiến lược này mang kư hiệu “616,” rộng 4 mét chạy ngoằn ngoèo trên dăy Trường Sơn và đâm thẳng sang lănh thổ Savanakhet của Lào. Đại Đội 3 Biệt Cách Nhảy Dù do Đại Úy Phạm Châu Tài chỉ huy được giao nhiệm vụ thám sát và khai thác con đường này. Sáng ngày 2 tháng 5/1970, Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài bay quan sát con đường chiến lược này cùng với Thiếu Tá Phan Văn Huấn, chỉ huy trưởng Trung Tâm Hành Quân Delta, và Vũ Xuân Thông –Trưởng Ban 3 Delta. Phi cơ bay cao để các sĩ quan nói trên t́m một nơi đổ quân an toàn. Qua khỏi biên giới Việt-Lào khoảng 5 km, con đường chiến lược 616 tách ḿnh qua giữa hai ngọn đồi ở cao độ 270. Đại úy Tài nh́n kỹ ngọn đồi 270 này và quyết định đổ quân trên đỉnh đồi. Nh́n qua ống ḍm thật kỹ, Trưởng Ban 3 Vũ Xuân Thông kề miệng vào tai Đại Úy Tài và nói – Có ổ pḥng không trên đỉnh đồi. Theo đề nghị của các sĩ quan Việt Nam, phi cơ trực thăng đảo một ṿng nữa rồi bay đi. Qua sự quan sát, Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài biết rằng những điểm cao hai bên đường đều có đặt pḥng không để bảo vệ sự chuyển quân của Việt Cộng nếu bị phi cơ của Không Quân Việt-Mỹ phát hiện. Đại Úy Tài được Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn dành cho một ngày để thảo kế hoạch xâm nhập và chuẩn bị súng đạn và trang bị cần thiết cho cuộc hành quân của đại đội trong vùng Savanakhet, lănh thổ Lào. Để phụ trợ cho Đại Đội 3 Biệt Cách Nhảy Dù về liên lạc không yểm trong vai tṛ cố vấn, toán B52 Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ đă chỉ định 3 quân nhân nhảy theo đại đội. Đó là Thượng Sĩ Voix, Trung Sĩ Scott và Hạ Sĩ Alain. Tối ngày 3 tháng 5, Đại Úy Tài được lệnh thuyết tŕnh đầy đủ chi tiết cuộc xâm nhập. Theo kế hoạch th́ đỉnh đồi 270 là mục tiêu thứ nhất và ngọn đồi 250 là mục tiêu thứ nh́. Tiến sâu vào lănh thổ Lào khoảng 500 mét có một ngọn đồi ở cao độ 200 mét là mục tiêu thứ ba. Các trực thăng vơ trang sẽ tác xạ “sạch sẽ” băi đáp ngay trên đỉnh đồi 270 một phút trước khi Đại Đội 3 Biệt Cách Nhảy Dù đổ bộ. Nếu gặp sự chống trả hoặc bao vây của Việt Cộng th́ đường rút lui sẽ men theo hướng Đông đi về biên giới Lào-Việt. Các sĩ quan chỉ huy gồm có: Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài; Đại Đội Phó Dương Thương Ngộ, Trung Đội Trưởng Trung Đội 1 Nguyễn Vũ Thiện; Trung Đội Trưởng Trung Đội 2 Đặng Đ́nh Hoàng; Trung Đội Trưởng Trung Đội 3 Nguyễn Văn Phước; Trung Đội Trưởng Trung Đội 4 Vũ Ngọc Đính. Sáu giờ sáng ngày 4 tháng 5, 15 chiếc trực thăng của Phi Đoàn 218 Hoa kỳ sẵn sàng tại phi đạo Mai Lộc để chuẩn bị cuộc đổ quân. Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù là Trần Phương Quế và Trưởng Ban 3 Tiểu Đoàn là Trần Văn Thọ sẵn sàng trên chiếc trực thăng CNC. Ngoài ra, 4 trực thăng vơ trang cũng chuẩn bị cất cánh. Theo kế hoạch, Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài và ban chỉ huy đại đội gồm 5 người sẽ cùng Trung Đội 1 của Nguyễn Vũ Thiện là thành phần đầu tiên chiếm đỉnh đồi 270. Sáu giờ 30, đoàn trực thăng rời khỏi phi đạo, bay về hướng biên giới với cao độ tăng dần. Lúc 6 giờ 55 đoàn trực thăng hạ thấp cao độ. Mục tiêu lần lần hiện rơ. Đoàn trực thăng chở quân đảo một ṿng trên mục tiêu để 4 trực thăng vơ trang luân phiên nhau bắn dọn băi. Khi những quả rocket và đại liên của trực thăng vơ trang nổ vang là lúc Cộng quân vừa tỉnh ngủ và thức dậy. Trung Đội 1 nhảy xuống trận địa xung phong tiến chiếm các vị trí cao điểm, một ổ pḥng không 12 ly của Cộng quân chỏng mũi lên trời và chưa kịp điều khiển, th́ Biệt Cách Nhảy Dù đă tung một trái lựu đạn vào ổ súng này, hai xạ thủ Cộng quân tan xác. Do bị tấn công bất ngờ, nên Cộng quân không kịp kháng cự. Phân đội pḥng không của họ phản ứng yếu ớt và bị triệt tiêu. Từng hố cá nhân trên đồi bị nổ tung, một toán Biệt Cách Nhảy Dù nhanh chóng tấn kích chớp nhoáng vào căn hầm chỉ huy có mái lợp bằng lá rừng, bắn hạ cả 3 bộ đội Bắc Việt trong hầm. Những cán binh Bắc Việt khác c̣n sống sót lập tức tháo chạy. Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài liền chỉ định Trung Đội 2 đuổi theo truy kích. Đúng 7 giờ 15 phút, Đại Đội 3 Biệt Cách Nhảy Dù hoàn toàn làm chủ đồi 270, tịch thu một súng pḥng không 12.7 ly, 12 khẩu AK 47, 30 thùng đạn đại-liên 12.7 ly, một số lựu đạn chài và chất nổ. Ngoài ra, có 7 cán binh Bắc Việt đă bị bắn hạ tại chỗ. Về phía Biệt Cách Nhảy Dù có một người tử trận, 2 binh sĩ khác bị thương. Các cố vấn Hoa Kỳ đi theo đại đội đă ngạc nhiên về chiến tích 15 phút vừa qua của các Biệt Cách Nhảy Dù. Cuộc truy kích tiếp tục, các trung đội bung rộng lục soát đồi, khám phá nhiều giao thông hào chiến đấu được ngụy trang rất kỹ. Tại ban chỉ huy, Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài liên lạc vô tuyến với Tiểu Đoàn Trưởng Trần Phương Quế trên máy, báo cáo chiến tích và xin một trực thăng cứu thương để đưa xác chiến binh vừa tử trận và thương binh về căn cứ hành quân. Lời yêu cầu được đáp ứng 15 phút sau đó. Tám giờ 5 phút, trên vùng trời xuất hiện một phi cơ L-19. Thượng Sĩ Voix liên lạc với phi công và được biết quan sát viên trên phi cơ này vừa thấy một đoàn quân khoảng 100 người đang từ hướng Tây Bắc di chuyển về hướng Đại Đội 3 Biệt Cách Nhảy Dù. Được báo tin, Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài nghĩ ngay đây là một thành phần Cộng quân đă lọt vào khu vực hành quân của Biệt Cách Nhảy Dù. Thượng Sĩ Voix hỏi Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài có cần gọi phi cơ oanh kích không, anh gật đầu và yêu cầu liên lạc thẳng với L-19 để hướng dẫn cuộc oanh kích. Mười lăm phút sau, trên nền trời hai phản lực cơ F-5 xuất hiện và nhào xuống oanh kích đoàn Cộng quân. Một lát sau đó, có thêm hai F-5 tăng cường. Cả bốn chiếc đồng loạt oanh kích dữ dội. Phi công trên chiếc L-19 báo cho Thượng Sĩ Voix biết là phi cơ đă tấn công trúng đội h́nh di chuyển của Cộng quân và địch chết rất nhiều. Thượng Sĩ Voix hỏi Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài có cần oanh kích nữa không, anh trả lời nếu cần th́ xin thêm hai phi tuần nữa rồi đại đội di chuyển đến đại đội đó để thanh toán các Cộng quân c̣n sống sót. Qua sự liên lạc của Thượng Sĩ Voix, hai phi tuần F-5 tiếp tục oanh kích lần chót, sau đó Đại Đội 3 Biệt Cách Nhảy Dù di chuyển xuống đồi, băng qua đường chiến lược 616 để tiến về phía Tây Bắc. Di chuyển gần 2 km trên triền núi, Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài các chiến binh Đại Đội 3 Biệt Cách Nhảy Dù nh́n thấy tận mắt kết quả của trận oanh kích: trên 100 xác Cộng quân bị cháy, bị đạn nằm la liệt trên đồi, bên b́a rừng và trên triền núi. Không một tiếng súng kháng cự của đối phương khi Đại Đội 3 Biệt Cách Nhảy Dù đến. Chiến binh trong đại đội nhặt những khẩu AK bị gẫy báng, bị cháy, ṇng cong queo và chất thành đống. Lục soát tử thi, đại đội t́m được một số tài liệu và biết được đơn vị Cộng Sản Bắc Việt này vừa theo đường ṃn Hồ Chí Minh xâm nhập vào Nam Lào để tiến về Trị-Thiên. Mười giờ 30, đại đội chia làm ba mũi tiến chiếm ngọn đồi 250. Không một tiếng súng chống cự, và khi Trung Đội 2 do anh Đặng Đ́nh Hoàng tiến lên đỉnh đồi th́ khám phá một ổ pḥng không 12 ly 8. Những hầm hố ngụy trang xung quanh đồi vẫn c̣n nguyên vẹn và mới mẻ. Theo ước đoán của Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài, Cộng quân sợ phi cơ oanh tạc nên đă vội vă rút chạy, c̣n để lại khẩu pḥng không và 50 thùng đạn mang nhăn hiệu Trung Cộng. Mười một giờ, Đại Đội 3 Biệt Cách Nhảy Dù làm chủ ngọn đồi 250. NHỮNG PHÚT MÁU LỬA Ở ĐỒI 250 Sau khi dừng quân trên Đồi 250, Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài ra lệnh cho các trung đội tổ chức bố pḥng và dùng cơm trưa. Mỗi chiến binh Biệt Cách Nhảy Dù nấu một lon nước sôi bằng chất thuốc nổ rồi đổ bao gạo sấy và khui một hộp thịt ba lát, ăn vội vàng để c̣n kịp chuyển quân sang mục tiêu thứ ba trước khi trời tối. Mười một giờ 5 phút, Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài đang ngồi dưới gốc cây lưng chừng đồi, xem lại bản đồ th́ anh nghe tiếng ngáy ngủ của Thượng Sĩ Voix. Trung Sĩ Scott đề nghị Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài hướng dẫn anh lên đỉnh đồi để quan sát và chụp h́nh vị trí pḥng không của địch. Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài đồng ư và gọi Thượng Sĩ Voix thức dậy cùng đi. Anh liên lạc với Trung Đội 2 cho biết anh và 2 cố vấn Mỹ đang tiến lên đỉnh đồi. Đến đỉnh đồi, anh gặp Trung Đội Trưởng Hoàng đang đứng bên cạnh ổ súng pḥng không, Hoàng nói với Đại Đội Trưởng: – Không đánh mà được, kỳ này ḿnh may nhiều hơn rủi, phải không Hổ Xám (danh hiệu truyền tin của Đại Úy Tài). Hổ Xám trả lời: – Ḿnh c̣n 3 mục tiêu phải thanh toán, anh em ḿnh có lẽ sẽ mệt lắm. Mười phút sau, trong khi Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài, Trung Đội Trưởng Hoàng và hai cố vấn đang đứng quanh ổ súng pḥng không của địch th́ trên bầu trời bỗng nhiên xuất hiện một chiếc trực thăng “con cóc” mà Không Quân Hoa Kỳ gọi là LOH (Light Observation Helipcopter). Các chiến binh Biệt Cách Nhảy Dù thấy phi cơ Mỹ th́ vui mừng, giơ tay lên trời vẫy. Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài cũng nghĩ đó là một trực thăng đang có nhiệm vụ yểm trợ quân bạn. Chiếc LOH chao đi một ṿng và bắn hai quả đạn khói trắng gần vị trí các quân nhân nói trên. Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài ngạc nhiên vô cùng và tự hỏi tại sao LOH bắn trái khói của Biệt Cách Nhảy Dù. Nh́n về hướng Đông, Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài thấy hai chiếc Cobra xuất hiện. Linh tính cho vị Đại Đội Trưởng biết là sẽ có những điều không may xảy đến, anh nhảy xuống ụ súng pḥng không đào sâu dưới đất một thước th́ nghe bốn tiếng ầm ầm nổ vang trên đồi. Trung Sĩ Scott cũng nhảy theo anh xuống ụ súng ngay theo đó. Tiếp theo là những tràng đại liên nổ ṛn ră và tới tấp từ Cobra bắn xuống. Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài biết là phi cơ Mỹ đă bắn lầm nên rút vội trái khói vàng thảy lên miệng hố. Anh cũng thúc Trung Sĩ Scott rút một trái khói vàng nữa thảy lên. Khi trái khói vàng tỏa ra trên đỉnh đồi th́ hai chiếc Cobra mới ngưng tác xạ. Hạ sĩ Alain dưới đồi vội vă t́m tần số liên lạc với hai phi cơ này. Sự kiện xảy ra không đầy ba phút, và theo ghi nhận của Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài đó là ba phút của máu và nước mắt của chiến trường. Anh đă kể lại sự kiện bi tráng này trong hồi kư của ḿnh như sau: “Dứt tiếng súng, tôi và Trung Sĩ Scott nhảy lên miệng hố th́ chứng kiến một cảnh tượng hăi hùng diễn ra trước mắt: Trung Đội Trưởng Đặng Đ́nh Hoàng nằm ngữa không nhắm mắt, bị đại liên bắn trúng từ hông phải và rải dọc lên vai trái. Thượng Sĩ Voix nằm sấp, chết bất động, chân trái và chân phải bị đạn từ bắp vế, đứt ĺa khỏi cơ thể. Hạ Sĩ Nguyên mang máy truyền tin cho tôi ngồi bất động, vẫn c̣n sống, nhưng cánh tay phải đă cụt mất và không biết văng rớt nơi nào.” “Khi tôi nhảy lên miệng hố th́ hai chiếc Cobra và chiếc LOH vẫn c̣n bay ḷng ṿng trên bầu trời. Những người lính Đại Đội 3 Biệt Cách Nhảy Dù đang bố pḥng quanh, một số ít bị thương v́ đạn đại liên, phần lớn đều bị trúng những cây đinh ghim vào mặt, vào chân, vào tay, vào cổ. Th́ ra chiếc Cobra loạt đầu đă phóng 4 hỏa tiễn Flechette, mỗi trái đạn khi ra khỏi ṇng tủa ra 2,500 cây đinh nhọn. Đây là một loại đạn chống chiến thuật biển người của Việt Cộng, không may lại phóng vào Đại Đội 3 Biệt Cách Nhảy Dù của chúng tôi.” “Hai chiếc Cobra sau khi đă bắt được liên lạc với hạ sĩ Alain, biết ḿnh đă bắn lầm quân bạn, vội vă bay đi mất. Những máy truyền tin PRC-25 bị chấn động mạnh nên gặp trở ngại những phút ban đầu. C̣n chiếc LOH đă chỉ điểm bắn lầm quân bạn bay hai, ba ṿng trên đỉnh đồi, bỗng nhiên trục trặc máy móc và buộc phải hạ cánh xuống đỉnh đồi.” “Lính Đại Đội 3 Biệt Cách Nhảy Dù biết rằng Mỹ bắn lầm và chợt thấy chiếc LOH hạ cánh xuống đồi, họ tức giận và cầm súng hung hăng tiến đến định bắn chết phi công Mỹ. Trong lúc đó, hai chiếc Cobra bay trở lại ṿng ṿng trên bầu trời. Viên phi công trực thăng LOH vội vă giựt ống liên hợp truyền tin trên tay Hạ Sĩ Alain và báo với 2 chiếc Cobra rằng Biệt Cách Nhảy Dù uy hiếp anh ta.” “Đứng bên cạnh viên trung úy phi công Mỹ, tôi chụp lấy ống liên hợp của anh ta và nói: Anh đừng báo cáo bậy, tôi là chỉ huy trưởng ở đây, tôi sẽ bắt anh chứ không bắn chết anh. Lính Đại Đội 3 Biệt Cách Nhảy Dù tiến lại và chĩa súng vào ḿnh viên trung úy phi công này, chỉ cần một tiếng nói của tôi là họ đồng loạt nổ súng.” “Thấy vậy tôi bảo họ: Không nên làm bậy, v́ thằng Mỹ này chết th́ hai chiếc Cobra trên đầu sẽ tác xạ bọn ḿnh. Tôi bảo họ trở về vị trí, sợ Việt Cộng thừa cơ hội tấn công. Sau đó, một mặt tôi báo cáo về căn cứ hành quân sự kiện phi cơ Mỹ bắn lầm, một mặt lo chỉnh đốn lại hàng ngũ và kiểm điểm quân số tổn thất. Tôi nghĩ rằng căn cứ hành quân sẽ xúc động mạnh về sự kiện này.” “Thi thể Đặng Đ́nh Hoàng, thi thể Thượng Sĩ Voix và thi thể của ba anh em khác được cuốn gọn trong những tấm poncho. Tổng kết tổn thất trong vụ bắn lầm gồm có 5 người chết và 33 người bị thương. Tôi liên lạc với căn cứ hành quân để xin tản thương. Hai giờ chiều, một chiếc Chinook Hoa Kỳ bay đến và t́m cách móc chiếc LOH đang nằm trên đỉnh đồi. Công việc hoàn tất lúc 2 giờ 30 phút. Tôi giữ viên trung úy phi công lái chiếc LOH lại.” “Trung Sĩ Scott da đen giải thích với tôi rằng phi cơ của Sư đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ đang tuần tiễu biên giới Lào Việt, nh́n về hướng Đông, chiếc trực thăng LOH nhận thấy lố nhố những người đang di chuyển trên đồi cạnh khẩu pḥng không, phi công này tưởng đó là quân Bắc Việt nên hướng dẫn hai chiếc Cobra tác xạ, nên xảy ra việc bắn lầm đáng tiếc này.” NHỮNG GIỜ PHÚT CUỐI CÙNG TRÊN ĐỒI 250 Hai giờ 50 phút chiều, sáu chiếc trực thăng tản thương đến. Tử thi của Trung Đội Trưởng Hoàng, 3 binh sĩ Biệt Cách Nhảy Dù, Thượng Sĩ Voix cùng các thương binh khác lần lượt đưa lên trực thăng. Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài giao viên phi công Mỹ cho Căn Cứ Hành quân, đồng thời nhận được công điện của Liên Hương (danh hiệu của Thiếu Tá Phan Văn Huấn, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Hành Quân Delta gửi cho Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài: “Hổ Xám tiếp tục nhiệm vụ.” Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài kiểm điểm quân số c̣n lại và xin thay đổi gấp hai máy truyền tin PRC-25 đă bị hư không liên lạc được để tránh những khó khăn lúc lâm trận, nhất là cả đại đội đang ở trên đất Lào, ngay trên đường chuyển quân của bọn cộng sản Bắc Việt. Đến 3 giờ 30 chiều, đại đội đang bố trí quân c̣n lại trên đồi 250 th́ từ phía Đông-Nam xuất hiện một chiếc trực thăng. Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài nghĩ rằng trực thăng này sẽ mang hai máy truyền tin mới cho đại đội. Một lát sau trên tần số của máy PRC-25, Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài nghe tiếng của Thiên Nga (danh hiệu của Tiểu Đoàn Trưởng 81 Biệt Cách Nhảy Dù) gọi và hỏi Hổ Xám: “T́nh h́nh thế nào, có ổn không, có “lang thang” được không? (“lang thang” ở đây có nghĩa là tiếp tục chiến đấu).” Hổ Xám trả lời: “Tŕnh Thiên Nga, vẫn đủ sức lang thang.” Bên đầu máy, giọng của Thiên Nga trở nên nghiêm trọng: “Đây là lệnh Liên Hương cho Hổ Xám: Zoulou chuồn chuồn sẽ đến. (Liên Hương là danh hiệu của Thiếu Tá Phan Văn Huấn — Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Hành Quân Delta). Lệnh của Liên Hương cho phép Đại Đội 3 Biệt Cách Nhảy Dù được rút khỏi trận địa để trở về căn cứ hành quân. Mười sáu (16) chiếc trực thăng sẽ đến đưa toàn đại đội trở về.” Sau khi nhận lệnh của Liên Hương, Hổ Xám trả lời: “Tŕnh Thiên Nga, tôi nhận đủ –thôi nhé, ráng lên.” Bốn giờ 30 chiều, đoàn trực thăng từ hướng Đông bay đến. Chỉ Huy Trưởng hành quân Delta là Thiếu Tá Phan Văn Huấn ngồi trên trực thăng CNC gọi Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài sẵn sàng để Zoulou (di chuyển). Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài ra lệnh cho các trung đội sẵn sàng theo thứ tự ưu tiên để lên phi cơ, anh là người cuối cùng của đại đội lên chiếc trực thăng thứ 16 trở về căn cứ hành quân ở Mai Lộc. (Sài G̣n trong tôi/ Vương Hồng Anh) |
HUYNH ĐỆ CHI BINH
HUYNH ĐỆ CHI BINH |
Quote:
Một lần nữa cám ơn Huynh HL22 đă ghi lại những h́nh ảnh và ḍng bút kư ở những Trận Đánh kiêu hùng của Quân Lực VNCH Năm Xưa !...Rất mong Huynh đừng đóng cửa nhé !...Thân Chào Huynh ! :thankyou::thankyou: :thankyou::handshake ::handshake::handsha ke: |
Quote:
:eek::eek::eek::eek: Trong cuộc chiến 20 năm qua , h́nh ảnh người lính VNCH bị " bôi nhọ " bởi bên thắng cuộc nào là : - " Hèn nhát " - " Bị " quân đội đánh cs chạy tụt cả quần .... " nhưng nh́n lại lịch sử đă chứng minh những trậnnh đánh chính quy của quân lực VNCH và cs Bắc Việt th́ VNCH hoàn toàn đẩy lui dù VNCH phải chiến đấu trong t́nh trạng thiếu vũ khí v́ bị đồng minh Mỹ bán đứng dưới h́nh thức cắt viện trợ vũ khí , đạn dược trong khi đó cs Bắc Việt được LX , Tàu cộng viện trợ vũ khí dồi dào ! . Trong cuộc chiến 20 năm qua , h́nh ảnh người lính VNCH bị " bôi nhọ " bởi bên thắng cuộc nào là : - " Hèn nhát " - " Bị " quân đội nhân dân chạy tụt cả quần .... " nhưng nh́n lại lịch sử đă chứng minh nhận trận đánh chính quy của quân lực VNCH với cs Bắc Việt : Tết Mậu Thân , Mùa hè đỏ lửa , ... đă chứng minh hùng hồn những luận điệu xuyên tạc ác ư , gian dối . Theo thiển ư thô thiển của tôi về cuộc chiến trong 20 năm qua được cho là : - Một cuộc chiến huynh đệ tương tàn do những thế lực trên thế giới ... Với những sự kiện lịch sữ đă được bạch hóa th́ đây không phải là một cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn mà là cuộc chiến " chống ngoại xâm , bảo vệ lảnh thổ của tiền nhân để lại và người lính VNCH đă mang một sứ mệnh cao cả đó . Những trận đánh , những anh hùng tử sĩ trong cuộc chiến nầy phải được lưu truyền , vinh danh để cho những thế hệ trẻ sau nầy biết được : Quân đội nào thực sự bảo vệ Tổ Quốc VN và Quân Đội nào làm tay sai cho Cộng Sản Quốc Tế ( Cướp miền Nam để đưa cả dân tộc VN trở về thời kỳ Ngàn Năm Nô Lệ Giặc Tàu " , cản đường bước tiến của dân tộc ) Người lính VNCH hy sinh xương máu bảo vệ Tổ Quốc VN trước hiểm họa nhuộm đỏ của " cs quốc tế " . Quân Đội Nhân Dân VN ăn cướp miền Nam là cho " Cộng Sản Quốc Tế " mà Lê Duẩn đă chỉ thị : ![]() Một chứng minh thực tế là quân đội nào " Hèn với giặc ... hăy so sánh quân lực VNCH và Quân Đội Nhân Dân VN trong thời điểm hiện tại và trận Hải Chiến HS của Quân Lực VNCH và Quân đội Nhân Dân VN hiện nay đă chứng minh hùng hồn : - " Quân Đội nào " Bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam và Quân đội nào " Hèn , không bảo vệ Tổ Quốc VN ? ". Tàu cộng ngang nhiên vào vùng đặc khu kinh tế của VN , bắn giết , cướp ngư cụ ngư dân VN mà Quân Đội Nhân Dân VN trốn mất sau những tuyên truyền " hét ra lửa " : - Quân đội ta đánh trăm trận , thắng trăm trận " Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành " - Khó khăn nào cũng vượt qua - Kẻ thù nào cũng đánh thắng ... vv .... và vv... Câu hỏi được đặt ra : " Tại sao Quân Đội Nhân Dân VN oai hùng , tài ba thế mà cái Dũng của quân đội nầy ở đâu để ngồi xem đoạn video của Tàu cộng chiếu lại cảnh bọn chúng thảm sát 64 bộ đội ở đảo Gạc Ma năm 1988 để rồi sau đó nh́n chúng xây căn cứ quân sự , tuyên bố chủ quyền lảnh của VN thuộc về chúng mà không thấy nhục nhă ? Tổ quốc , Danh dự , Trách Nhiệm , của người lính trước một đoạn phim của kẻ cướp chiếu lại cảnh chúng tàn sát đồng đội mà không thấy bị sĩ nhục ? Một quân đội luôn tự hào có truyền thống " chiến thắng Pháp , Mỹ , 2 tên đầu sỏ thế giới " , từng ngẩng cao mặt thóa mạ người lính VNCH là ươn hèn , đánh thuê cho Mỹ ... vv ... và ... vv ... Bây giờ bị trói tay xem kẻ thù tàn sát đồng đội không dám hở môi th́ cái chiến thắng oai hùng , long trời , lở đất ngày 30/4/1975 " được tuyên truyền tóe lửa " có thật là chiến thắng do chính Quân Đội Nhân Dân VN làm ra hay nhờ vào một thế cờ khốn nạn giữa các cường quốc ? Bộ đội cs có thực sự là một đội quân " bách chiến , bách thắng " ? Quân lực VNCH thua trận HS v́ phải đối đầu với CS , v́ bị đồng minh Mỹ bán đứng nhưng trong trang sử của dân tộc VN th́ : - VNCH không thua chứng minh cụ thể : - Dù biết khả năng không thể đương đầu với một lực lượng quân sự Tàu cộng hùng mạnh nhưng VNCH vẫn hiên ngang đánh với bọn chúng . Biết chết vẫn đánh , biết thua vẫn đánh . - Đánh cho chúng biết cái hào khí của dân tộc VN . - Đánh cho chúng nhớ từ ngàn năm trước chúng từng thua nhục nhă trong các trận Như Nguyệt (1285) , Bạch Đằng Giang , Hà Hồi , Ngọc Hồi .... mà tiền nhân của chúng ta làm cho chúng khiếp sợ , bỏ mộng xâm lăng . - Đánh cho chúng biết tinh thần bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc VN nói chung và của người lính VNCH nói riêng . https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=1424042 ![]() Tâm niệm của người lính VNCH : " Tổ Quốc Việt Nam trên hết . Nối gót tiền nhân : " Quyết tâm hy sinh xương máu để bảo vệ toàn vẹn lảnh thổ ." Thiết tha mong anh Hoang Lan 22 đừng bao giờ khóa thread nầy . Trân trọng . hoathienly19 |
THẦN ƯNG XÉ XÁC XE TĂNG ĐỊCH 1972 !
THẦN ƯNG XÉ XÁC XE TĂNG ĐỊCH 1972 ! ![]() Qua đợt đầu Cộng sản Bắc Việt tấn công mănh liệt, hung hăn, ồ ạt, các căn cứ hỏa lực Carroll (Trung đoàn 56 thuộc Sư đoàn 3 Bộ binh) đầu hàng và Mai Lộc (Lữ đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến) phải cầm cự lui dần, khi căn cứ Pedro trở nên tuyến đầu pḥng thủ. Thiếu tá Đỗ Hữu Tùng, Sĩ quan khóa 16 đalat, phong thái trầm tĩnh, luôn như suy nghĩ điều ǵ, từ từ, thủng thẳng trong mọi biến cố, kinh nghiệm chiến trường, một trong các Tiểu đoàn trưởng cự phách của Thủy Quân Lục Chiến, là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến biết thế nào căn cứ cũng bị chiến xa cùng quân bộ Cộng sản Bắc Việt tấn công kế tiếp, nên anh phối hợp với Lữ đoàn 258 xin đặt ḿn chống chiến xa sâu về hướng Tây đường tiến sát đến căn cứ. ![]() Ngay trong đêm 8/4/1972, toàn bộ Tiểu đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến phân tán lực lượng ra khỏi căn cứ, chốt tại các đỉnh cao xung quanh. Thật quả như Đỗ Hữu Tùng dự đoán, địch chuẩn bị cho cuộc tấn công căn cứ vào ngày hôm sau nên pháo kích suốt đêm như mưa, binh sĩ Tiểu đoàn 6 dưới các hầm hố cá nhân bên ngoài căn cứ chờ địch suốt đêm Quả nhiên lúc 6 giờ 45 sáng ngày 9/4/1972, một Trung đoàn địch cùng đoàn chiến xa T54, T59 xuất hiện từ hướng Tâỵ Pháo binh được gọi can thiệp, nhưng chỉ cản sức tiến phần nào của Bộ binh địch mà thôi, c̣n chiến xa địch vẫn hăm hở xông xáo tiến lên trong thế nghênh ngang khinh địch . Đoàn chiến xa vượt hẳn đội h́nh bộ binh của họ, tiến thẳng đến căn cứ. Từ một hố cá nhân chỉ huy đặt ống nḥm, Đỗ Hữu Tùng nở nụ cười nửa miệng, anh thường hay có lối cười như vậy, bạn bè thường nói: - “ Lại cười ruồi rồi ”, mà cứ mỗi lần cười ruồi là tiếp theo một đ̣n độc. Bản chất vốn thủng thẳng, anh giữ im lặng vô tuyến với các đại đội xa gần, ngay cả với hệ thống chỉ huy cao hơn, các con cái sốt ruột quá, không rơ ông Thái Dương (danh hiệu của Thiếu tá đỗ Hữu Tùng) của ḿnh muốn ǵ đây. Vài chiến xa đă cán hàng rào rồi, mà sao chưa lệnh lạc ǵ thế này, chờ cho đoàn chiến xa lọt hẳn vào tầm tác xạ dự trù, th́ cũng vừa lúc 1 chiếc cán ḿn, ầm một tiếng long trời dội đất, chiếc chiến xa lệch sang một phía bốc cháy, vài chiếc khác đă lọt hẳn vào trong căn cứ c̣n lựng khựng như đang cảm nghĩ chắc bị lừa, th́ lệnh khai hỏa tấn công của Đỗ Hữu Tùng vang lên trong máy truyền tin. Một xe tăng T-54 bị bắn hạ tại An Lộc. ![]() Các chiến sĩ Tiểu đoàn 6 nhô ra khỏi hố cá nhân, súng nhỏ nhắm bộ binh địch mà khiển, ống phóng chống chiến xa M72, 57 ly không giật tha hồ mà phóng từ bên hông và theo đuôi đoàn chiến xa ; cả chục chiếc bốc cháy, những chiếc c̣n lại hốt hoảng, đội h́nh rối loạn và húc vào nhau phóng chạỵ . Nhưng đâu thoát, các đồi xung quanh căn cứ binh sĩ Tiểu đoàn 6 đă chốt hết rồi, cứ nhằm chiến xa địch mà xịt ống phóng M72, một hồi nuốt gọn gần 20 chiến xa địch. Nhiều chiếc đang bốc cháy, một số binh sĩ Tiểu đoàn 6 hăng quá phóng ra khỏi hố cá nhân nhẩy phốc lên tháp chỉ huy chỉa súng M16 vào trong xe tăng, dọa tung lưu đạn, kêu ra đầu hàng. Về phần bộ binh địch tiến theo sau thấy đoàn chiến xa dẫn đầu bị phản công hung hăn, bốc cháy hàng loạt, đâm hốt hoảng rối loạn hàng ngũ tháo lui. ![]() Ngay khi được báo cáo t́nh h́nh, Trung tá Ngô Văn định, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 258 (sau thăng cấp đại tá) liền ra lệnh Tiểu đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến cùng chiến xa M48 hoạt động gần đó nhào đến tiếp tay Tiểu đoàn 6 truy kích ngược lại địch, đồng thời Không Quân cũng được gọi đến khi trời quang sáng để dội bom gây cho địch thiệt hại nặng . Địch cố thoát về hướng Tây bỏ lại hơn 400 xác ngổn ngang đầy đồi núi và 23 xe tăng (kể cả Tiểu đoàn 1 truy kích hạ thêm 4 và 2 xe tăng do Tiểu đoàn 6 bắt sống) bị cháy ngổn ngang. Vô cùng ngoạn mục và hùng tráng, thường th́ chiến xa chiến là 2 đoàn chiến xa bạn thù quần thảo với nhau, nhưng đây ngược lại lính Thủy Quân Lục Chiến quần thảo với chiến xa hạng nặng địch khác nào như lấy trứng gà đập vào tảng đá. Thật là một trận diệt chiến xa bằng bộ binh ít thấy ghi chép trong các trang quân sử trên thế giới. Sau trận này, 5 tiểu đoàn đàn anh, không một ông anh nào dám coi thường thằng em Thần Ưng nữa (xin xem bài Thần Ưng trong mùa Hè đỏ Lửa của Thiếu tá Thủy Quân Lục Chiến Lương Xuân đương, để rơ nét thêm về trận đánh này). Cũng lại Trung tá Đỗ Hữu Tùng dẫn Tiểu đoàn 6 tapi nửa vào Cổ thành đinh Công Tráng trong trận tái chiếm Quảng Trị sau đó ít tháng. Lời kết, nhân danh là vị Tiểu đoàn trưởng đầu tiên của Tiểu đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến “Thần Ưng” có vài cảm nghĩ như sau: – Trung tá Đỗ Hữu Tùng, vị Tiểu đoàn trưởng lâu nhất, cũng là người dẫn dắt Tiểu đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến lập được nhiều chiến công hiển hách lẫy lừng. – Đỗ Hữu Tùng sống anh dũng, khi về th́ lặng lẽ biến đi, để lại biết bao thương tiếc cho bạn bè đồng đội và một mối t́nh sầu cho người nữ ca sĩ nổi danh. – Nhiệm vụ sau cùng là Lữ đoàn phó Lữ đoàn 369, anh cùng với Lữ đoàn trưởng, Trung tá Nguyễn Xuân Phúc mất tích vào những ngày cuối tháng 3 năm 1975, hơn hai mươi năm sau, chúng tôi vẫn không t́m kiếm được một dấu tích nào về các anh. Khi ngồi ghi lại những ḍng này, người viết không khỏi bùi ngùi, xúc động tưởng nhớ các anh, những chiến hữu đă cùng người viết chia sẻ mười mấy năm vinh nhục trong cuộc nội chiến phi lư nhất lịch sử Việt Nam.:112::112::112:: 112: MX Phạm Văn Chung https://dongsongcu.wordpress.com Nguồn: http://tqlcvn.org/chiensu/cs-td6-xexac-xetang-dich.htm |
2 Attachment(s)
Đêm Hoa Đăng Bi Thảm (Hồi kư chiến trường).
LTS* Hôm nay ngày 30 tháng 3 năm 2013, đúng 38 năm ngày kỷ niệm trận Khánh Dương, Lữ đoàn 3 Nhảy Dù rút quân về Phan Rang, theo sau là đoàn xe của quân đội và đồng bào theo chân quân đội quốc gia xuôi về nam lánh nạn cộng sản. Đêm Hoa Đăng Bi Thảm. Nguyễn Văn Lập ( Translated into English by Writer, Merle L Pribblenow below. Thanks) Tái chiếm Quăng Trị xong, Sư đoàn Nhảy Dù tiếp tục đóng chốt trên dảy Trường Sơn làm thành một tuyến dài Bắc Nam từ bờ Nam sông Thạch Hản về đến căn cứ Bastongne tây bắc Huế, lúc này Hiệp định Paris đă ráo mực với những đợt xâm nhập của cộng sản Bắc Việt theo đường ṃn Hồ Chí Minh nằm sâu trong dảy Trường Sơn âm u, chúng định cắt Quân khu 1 làm đôi nên nhả bớt hoạt động nhưng vẫn duy tŕ áp lực để cầm chân hai Sư đoàn tổng trừ bị Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến tại Quăng Trị để đánh vào Thường Đức thuộc tỉnh Quăng Nam, nên Lữ đoàn 3 Nhảy Dù được điều động làm thành một pḥng tuyến kéo dài từ Ḥa Thanh sát với Đèo Hải Vân đến bờ sông Thu Bồn để bảo vệ Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 1 tại Đà Nẳng. Bộ Tư Lệnh Sư đoàn Nhảy Dù cũng rút về đóng tại phi trường Non Nước. Tiểu đoàn 2 Pháo binh Nhảy Dù của chúng tôi về đến Quăng Nam giửa tháng 2 năm 1975. Sau gần ba năm hành quân ngoài Trung, lần này tôi có căm tưởng đây là cuộc hành quân xuôi Nam lần cuối rồi giả từ vĩnh viễn miền Trung. Trung đội tôi đóng sát chân núi chỉ cách đồi 1062 độ 8 cây số để yểm trợ cho nhiều trận đánh ác liệt tại đây, Tiểu đoàn 6 Dù rồi Tiểu đoàn 3 Dù thay nhau tái chiếm ngọn đồi máu này. Gần Tết, pháo binh Thủy Quân Lục Chiến đến thay. Trung đội tôi rút ra đóng chung với Bộ chỉ huy một Tiểu đoàn Địa Phương Quân tại một ngọn đồi thoai thoải phía trước quận Đại Lộc, ngó xuống Cầu Gảy. Nhiệm vụ bây giờ chỉ là yễm trợ tổng quát tăng cường cho các đơn vị bạn, nên chúng tôi có th́ giờ đi vào làng dân thăm hiểu t́nh h́nh luôn tiện làm công tác dân sự vụ. Mặc dù không phải là nhiệm vụ chính của đơn vị tác chiến như chúng tôi, nhưng thấy t́nh cảnh đồng bào nghèo khổ tội nghiệp quá, đau yếu thuốc men ǵ cũng không có, nên tôi bảo y tá có bất cứ loại thuốc ǵ có thể cho th́ cho đồng bào rồi báo cáo xin lại sau, và gạo xấy th́ tặng cho bà con hết, kể cả một số gạo thặng dư hàng ngày thay v́ bán để mua thêm thức ăn cho trung đội, tôi cũng bảo đem cho hết. Ngày 30 Tết, Ban đại diện ấp và bà con đem bánh tét và bánh tổ là một loại đặc sản Quăng Nam đến tặng cho Trung đội tôi ăn Tết, t́nh nghỉa quân dân thật thắm thiết, nghỉ lại câu nói bạc như dân bất nhân như lính mà tôi nghe trước đây thật đúng là xuyên tạc. Viên Trưởng ấp nói với tôi quân đội ḿnh tốt quá, ở đây thường mất an ninh, nếu Nhảy Dù mà rút đi chắc bà con chúng tôi cũng bỏ làng đi theo. Câu nói này đă in sâu vào ḷng tôi nhiều năm sau này, và tôi tiếc là khi chúng tôi rời Quăng Nam vài ngày sau đó để về Nam th́ đồng bào Đại Lộc không theo chúng tôi được. Khi Thủy Quân Lục Chiến hoàn toàn thay thế Nhảy Dù tại mặt trận Thường Đức th́ Sư đoàn Nhảy Dù được lệnh về hậu cứ, chúng tôi hoàn toàn không ngờ đây là một cái lệnh bỏ Quân Khu 1. Tôi được Tiểu đoàn điều động ở lại sau chót để thu dọn quân dụng lên Hải vận hạm 505 về Saigon. Sau gần hai ngày lênh đênh trên biển, thay v́ về Saigon, tàu đưa chúng tôi vào quân cảng Cam Ranh rồi quân xa chở chúng tôi về Dục Mỹ. Lữ đoàn 3 Nhảy Dù đă có mặt ở Khánh Dương để chận bước tiến của đại quân cộng sản sau khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu có ư định bỏ nốt Quân Khu 2. Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng, Nguyễn Ngọc Triệu giao cho tôi nhiệm vụ làm Sĩ quan liên lạc Lữ đoàn 3 Dù, nếu tôi về trước đó một ngày th́ có lẽ không bao giờ có việc cầm bút viết lại hồi kư này v́ tôi sẻ được thay thế cho Đại Úy Tuấn, Pháo đội Trưởng A2 bị bệnh nên Đại Úy Tống Văn Tùng khoá 26 Thủ Đức và là bạn học cùng lớp với tôi suốt 4 năm Trung học Trần Lục, nay là Phụ tá Ban 3 vào thay. Sau trận Khánh Dương, Tùng bị bắt và bị cộng sản Bắc Việt đem ra sân vận động Nha Trang xử tử. Theo nhiệm vụ, tôi được quyền xin toàn bộ hỏa lực của Trường Pháo Binh Dục Mỹ gồm một pháo đội 105 ly, một pháo đội 155 ly, và một liên đội 175 ly gồm 3 khẩu để tác xạ tăng cường cho Lữ Đoàn 3 Nhảy dù gồm các Tiểu đoàn 2,5, và 6 Nhảy dù đóng từ Khánh Dương tức cửa ngỏ vào tỉnh Ban Mê Thuột chạy dài đến phía Bắc của Trung tâm Huấn luyện Lam Sơn. C̣n Tiểu đoàn tôi yễm trợ trực tiếp cho các đơn vị tác chiến thuộc Lữ Đoàn 3 Nhảy dù với gồm 18 khẩu đại bác 105 ly kiểu M102 kích ṇng bắn cực nhanh mà chính pháo binh Hoa Kỳ cũng không được trang bị, v́ chỉ dành riêng cho Pháo binh Nhảy Dù Việt Nam Cộng Ḥa là đơn vị duy nhất xử dụng loại vũ khí này cho thích hợp với đặc tính di động nhẹ. Sau khi Ban Mê Thuột thất thủ, toàn bộ các đơn vị đồn trú rút hết về Nam qua quốc lộ số 21, và bây giờ Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù phải một ḿnh ngăn chận các Sư đoàn 3 và 10, và một số đơn vị khác của cộng quân tại đây, tương quan lực lượng cở một chống mười làm tôi nhớ lại ngày nào Tiểu đoàn 11 Dù tử thủ Charlie tại Kontum, nay sẻ giống hệt như Lữ đoàn 3 Dù tại Khánh Dương. Cộng quân áp lực khắp nơi từ cả hai mặt đông và tây núi non hiểm trở, c̣n quốc lộ 21 th́ cộng sản không dám theo đường bộ tràn xuống, bộ binh và xe tăng của địch theo những đường ṃn trong rừng núi đánh ra đến đèo Phượng Hoàng (M’Rack) th́ bị chận lại, hàng trăm xác Việt cộng bị bỏ thây tại đây cùng với một xe tăng T54, t́nh h́nh chiến sự đè nặng lên vai bố già Lữ đoàn trưởng, Đại Tá Lê Văn Phát. Không ai bảo ai, mọi người đều biết t́nh h́nh này khó thể kéo dài nếu không có quân tiếp viện, suốt trong một tuần lễ và nhất là trong hai ngày 29 và 30 tháng 3 năm 1975, các đơn vị Lữ đoàn đụng độ liên tục với cộng quân, pháo binh Nhảy Dù cùng pháo binh cộng quân đấu pháo hầu như liên tục. Có lẻ tôi là một pháo thủ duy nhất lần đầu tiên được sử dụng toàn bộ hỏa lực của Trường Mẹ để yễm trợ chiến trường ác liệt cách Trường Pháo Binh không xa, tôi đă gọi bắn gần như liên tục ngày đêm các mục tiêu phản pháo hoặc tiêu hủy với đại bác 175 ly, và nhiều tuyến cản với đại bác 155 ly và 105 ly, ngoài các mục tiêu mà các Sĩ quan liên lạc từ các Tiểu đoàn Dù xin bắn, tôi c̣n phải chấm thêm nhiều tuyến cản để tác xạ. Cộng quân không pháo kích Bộ chỉ huy Lử Đoàn mà chỉ đánh các Tiểu đoàn Dù bằng pháo kích với pháo binh và xe tăng xong rồi bộ binh xung phong theo chiến thuật cổ điển tiền pháo hậu xung, Không Quân của ta từ phi trường Thành Sơn lên yễm trợ cũng không được hữu hiệu lắm đối với các chiến trường xé lẻ và tiếp cận hàng chục thước như thế này. Đến tảng sáng ngày 31/3/1975 th́ toàn thể các đơn vị tác chiến kể cả các pháo đội Pháo binh Dù bị tràn ngập, và trước khi rút đi đă phá hủy hết đại bác. Không hiểu sao Trường Pháo Binh nghe được và tự động ngưng tác xạ, tôi gọi măi để chuẩn bị nếu các đơn vị bạn yêu cầu th́ bắn ngay trên đầu cùng chết với địch tức là đồng ư quy tận, nhưng không có một đài nào trả lời hết. Độ nửa tiếng sau tôi nghe tiếng động cơ nổ liên tục tại Trường Pháo Binh mà sau cùng là tiếng xích sắt của các khẩu pháo 175 ly. Có lẽ Trường Pháo Binh đă nhận lệnh di tăn từ ở đâu đâu trước đây nên tự động tan hàng, kế đến là Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân Dục Mỹ nằm sát bên cũng tự động rút đi, và sau cùng là Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn. Một số các đơn vị thuộc Lữ đoàn 3 Nhảy dù hiện đang im lặng vô tuyến rời bỏ vị trí, chỉ biết là hầu hết bị địch tràn ngập, không một Đề lô nào cũng như Sĩ quan liên lạc pháo binh lên máy, mà có liên lạc được giờ phút này cũng không c̣n hỏa lực pháo binh yễm trợ nửa. Bộ Chỉ huy Lữ đoàn 3 Dù ra lệnh rút và Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 2 Pháo binh Dù phải di tản theo về Đèo Rù Ŕ, độ một tiếng sau là gở toàn bộ căn cứ di tản ra khỏi phi trường Dục Mỹ, tôi được lệnh ở lại căn cứ với một máy truyền tin PRC 25, một tài xế, và một chiếc xe Dodge. Trung Tá Trần Đăng Khôi, Lữ Đoàn Phó dặn tôi cứ ở tại phi trường chờ ông bay trực thăng quan sát xong sẻ quay trở lại bốc tôi đi, việc để lại tài xế với chiếc xe Dodge này mang ư nghỉa nếu ông không về đón th́ tôi sẻ cùng đệ tử chạy về Đèo Rù Ŕ t́m Lữ đoàn. Giờ này th́ cả huấn khu rộng lớn và phi trường Dục Mỹ chỉ c̣n có một ḿnh tôi và người đệ tử. Tôi nh́n về hướng Tây Bắc nơi h́nh Núi Vọng Phu vươn lên trên bầu trời nhạt nắng mai, người chinh phụ cùng đứa con hóa đá kia đă bao năm sắt son đứng đợi chồng về vẫn c̣n đứng đó, và ở dưới chân Bà, nhiều thế hệ sau đang viết tiếp một chương bi thảm của những người đi chinh chiến không về, lịch sử là một sự lặp lại không ngừng. Trong niềm đau thương u uất đó, tôi mong nghe có tiếng gọi của đồng đội tôi thuộc bất cứ đơn vị nào t́m đường ra quốc lộ, tôi sẻ hướng dẩn như đă làm trong quá khứ, nhưng không thấy ai lên tiếng. Gần một tiếng rồi không thấy trực thăng của Trung tá Khôi bay về, tôi mở các tần số gọi liên tục, vô vọng, kể cả tiếng Trung tá Khôi cũng không thấy trả lời. Tôi lên xe bảo người tài xế mở máy trực chỉ về Nha Trang. Dọc đường, đồng bào bằng đủ mọi phương tiện xe đ̣, honda, xe ḅ, kể cả đi bộ, có người trên vai gánh cái gia tài vô giá là hai người con nhỏ ngồi hai đầu, họ cũng xuôi Nam theo chân quân đội quốc gia, họ đi theo đường quân đội rút, để t́m tự do. Để phục vụ cho âm mưu phản chiến, bọn phóng viên khốn nạn nước ngoài chỉ giỏi loan báo những tin thất thiệt xuyên tạc cuộc chiến tranh tự vệ của quân dân miền Nam, chúng không bao giờ có th́ giờ t́m hiểu tại sao những người dân lành lánh nạn cộng sản, tại sao đồng bào tôi lại theo chân quân đội quốc gia về miền đất hứa bằng đôi chân tự do như thế này. Xế trưa th́ tôi về đến Đèo Rù Ŕ gần Nha Trang gặp lại Tiểu đoàn, tôi tŕnh với Thiếu Tá Triệu là không nghe bất cứ đài nào gọi. Độ nửa tiếng sau, Trung Tá Khôi cũng bay về, ông hỏi tôi sao không đợi, tôi trả lời cả một huấn khu to lớn như thế rút hết, chỉ c̣n hai thầy tṛ tôi và không liên lạc được ai nửa nên phải về đây. Lúc này tôi cũng không rỏ Lữ đoàn sẻ đi đâu, vào Nha Trang hay về Saigon theo đường bộ. Sau đó th́ có lệnh rút về quân cảng Cam Ranh. Về đến cổng quân cảng th́ cả một rừng quân xa của nhiều binh chủng và dân xa đủ loại đă bít kín hết cổng ra vào, xe cộ đậu dài cả chục cây số. Những người lính quân cảnh gác cảng chỉ biết lắc đầu nói không có tàu, t́nh cảnh này mà mở cổng th́ có trời cũng không cản nổi cảnh hổn loạn. Lúc gần chiều th́ Đại Tá Phát Lữ đoàn trưởng quyết định rút về Phan Rang theo đường bộ, khi đoàn xe của Lử đoàn trở đầu ra khỏi quân cảng th́ toàn thể rừng xe cộ kia cũng tự động nối đuôi, cặp bên hông là xe gắn máy của đồng bào, hàng ngàn xe cộ, dân xa, chiến xa, đại bác, và quân xa của một phần Quân khu 2 đông cở chục ngàn người theo sau đoàn quân Mũ Đỏ cở trên một trăm người mở đường tiến về Nam. Giửa cái khung cảnh bi hùng như thế, tôi có căm tưởng giống hệt như ngày xưa ông Môi Sen dẩn dân Do Thái vượt qua Biển Đỏ t́m về miền đất hứa lánh nạn quân Ai Cập. Xe chạy khá chậm để phía sau theo kịp, thỉnh thoảng phải dừng lại để quan sát ḍ đường. Mổi lần ngừng lại, chúng tôi năn nỉ đồng bào đừng chạy xe gắn máy cặp sát xe chúng tôi, lở bị phục kích th́ bị chết oan, nhưng đồng bào cương quyết nói “Nhảy dù đi đâu chúng tôi đi theo, có chết chúng tôi cũng chịu”, đành phải để cho bà con chạy theo như thế. Trong đời lính, nếu các bạn đă từng nghe được chính miệng những người dân lành vô tội đă đặt hết sinh mạng và tài sản vào tay quân đội quốc gia trong giờ phút tuyệt vọng như thế này, mới thấy được sự hy sinh của người lính chúng ta không phải vô ích. Ngồi trên xe, nhớ lại ngày mồng 2 Tết năm 1973, tôi đi đề lô cho Tiểu đoàn 2 Nhảy dù của Thiếu Tá Nguyễn Đ́nh Ngọc, có Đại đội 1 Hắc Báo là một đại đội bộ binh nổi tiếng nhất của Sư đoàn 1 Bộ binh do một viên Thiếu Tá làm Đại đội trưởng tăng cường đi chiếm lại làng An Lỗ nằm sát ngay quốc lộ số1 Thừa Thiên, Việt cộng vi phạm Hiệp định Paris, dành dân lấn đất, chúng đă lợi dụng ngưng bắn, chiếm trọn làng này, và dùng đồng bào làm bia đở đạn. Tôn trọng lệnh ngưng bắn, chúng tôi không sử dụng pháo binh để yễm trợ, Hắc Báo làm trừ bị, Nhảy Dù dàn hàng ngang làm nổ lực chính, cẩn thận chiếm lại từng ngôi nhà với lệnh cố gắng tối đa bằng mọi giá không làm thiệt hại đến tính mạng và nhà cửa của đồng bào, chiếm đến đâu giao cho Hắc Báo giử đến đó. Khi chiếm lại toàn bộ xă, bắt sống cũng như hạ tại chổ nhiều địch quân, nhà cửa của đồng bào hầu như c̣n nguyên vẹn, không một người lính Dù và đồng bào nào bị tử thương, c̣n hơn là phép lạ. Đến Du Long th́ trời đă tối, nh́n lại phía sau, cả chục cây số đèn pha sáng trưng, nguyên một góc trời đèn xe như một con giao long đang uốn khúc, sáng long lanh trong đêm hoa đăng bi thảm, đêm nay đồng bào Khánh Ḥa bỏ phiếu cho tự do, không cần biết về đâu miễn quân đội quốc gia đi đâu th́ đồng bào đi theo đến đó. Cũng may, không một tiếng súng nào nổ thêm trong đêm này và toàn bộ đoàn quân dân về đến Phan Rang b́nh an vô sự. Xe của Nhảy dù chạy đi đâu th́ đoàn xe khổng lồ phía sau cũng nối đuôi, đến khoảng 3 giờ sáng ngày 01/4/1975 th́ vào đến Phan Rang, xe chạy ra sát biển th́ dừng lại, c̣n đoàn xe đă tháp tùng chúng tôi th́ tiếp tục cuộc hành tŕnh vô Nam và đến Phan Thiết trong ngày hôm đó. Lử đoàn 3 Dù nhận được lệnh mới vào phi trường Thành Sơn nay do Bộ Tư lệnh Sư đoàn 6 Không Quân với con phượng hoàng Phan Rang, một vị tướng mặt trận, Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang trấn nhậm, c̣n vị Tỉnh trưởng Phan Rang, Đại Tá Trần Văn Tự th́ đang tá túc trong phi trường đến ngày 07/4/1975 mới trở về nhiệm sở. Sáng hôm sau ngày 02/4/1975, một trung đội thuộc đại đội chỉ huy của Lữ đoàn 3 Dù do một Trung sỉ hướng dẩn đi theo một viên Đại Úy Địa Phương Quân, vị này nguyên là Trưởng Ban 2 quận châu thành Phan Rang nay được đề cử giử chức tân Quận Trưởng và được Nhảy Dù hộ tống đi trấn an dân chúng. Tôi được lệnh đi theo với nhiệm vụ chính là t́m đại bác 105 ly nào của ta bỏ lại c̣n sử dụng được th́ sẻ kéo về pḥng thủ phi trường, nhưng tất cả đại bác kể cả 155ly đều bị phá ṇng để lở rơi vào tay địch th́ không sử dụng được. Tại tiểu khu Ninh Thuận, tôi đă gặp người thay thế ông Tỉnh đang tá túc ở trong phi trường là vị Trung Tá Tiểu khu phó, đang liên lạc bằng tiếng Anh với một chiếc trực thăng bay ṿng ṿng trên đầu nghe nói là của một cựu cố vấn Mỹ đang hỏi thăm t́nh h́nh. Trong lúc chờ đợi, tôi đi ṿng ṿng quanh tỉnh th́ gặp một toán Thám Sát Tỉnh (tiếng Anh là Province Recon Unit gọi tắt là PRU), anh em này nhận ra tôi là cựu huấn luyện viên CT tiền thân của PRU, tay bắt mặt mừng, anh em cho biết t́nh h́nh trong tỉnh vẫn tương đối yên ổn tuy có vài vụ cướp bóc, c̣n Việt cộng th́ chưa vào được thành phố. Tôi nói Nhảy Dù về giử Phan Rang, nếu thuận tiện anh em thông báo cho dân chúng biết. Xong tôi từ giả và tiếp tục đi theo xe của trung đội Nhảy Dù chạy ṿng quanh thị xả t́m súng đại bác, rồi ra đến ngoại ô, đến nơi đâu viên Đại úy Quận Trưởng đều bắc loa nói Nhảy Dù đă về Phan Rang xin bà con trở lại sinh hoạt b́nh thường. Chỉ trong ṿng một buổi sáng, đă thấy sinh khí có vẽ đă trở lại với Phan Rang, vùng đất mà từ nay đă trở thành địa đầu giới tuyến, nhưng tôi vẫn không t́m được khẩu đại bác nào c̣n nguyên vẹn, pháo binh quyết định chiến trường, không có pháo th́ việc pḥng thủ phi trường càng thêm khó khăn. Tại cửa biển Phan Rang, sát một làng chài lưới, đồng bào báo cáo có một bọn cướp có súng, lợi dụng t́nh h́nh sôi động đă cướp bóc nhũng hại dân lành cả tháng nay, hiện bọn này đang nằm ở nhà, xin quân đội đi bắt, viên Đại Úy không c̣n quân này xin Nhảy Dù đi bắt cướp, tôi đề nghị viên Trung sĩ Trưởng toán Nhảy Dù cho đi, và đă bắt được hai tên cướp này thật dễ dàng, rồi trói lại rồi đưa ra ngay cửa biển nơi có chiếc ghe của gia đ́nh tên chánh đảng cướp đang neo tại bến. Bà con nghe tin kéo đến thật đông, viên Đại Úy hỏi ư kiến bà con xử trí như thế nào, mọi người đều hô to xử tử, nhanh như chớp viên Đại Úy Quận Trưởng lập tức giơ M16 nhắm vào tên chánh đảng đang quỳ cách đó khoảng chục thước và bắn ba phát, tên chánh đảng vừa giảy chết th́ chiếc ghe kia cũng mở máy chạy. C̣n lại tên thứ hai th́ có một vị bô lảo nói là con và xin tha, v́ con ông chỉ là đồng bọn bị ép buộc, nay dân chúng cũng xin bảo lănh tha tội chết, tôi cũng nói thêm vào xin Đại Úy tha cho nó, và thật giống như là xi nê, tên này được viên Quận Trưởng cởi trói và tha tại chổ giống như “not guilty” tại phiên ṭa xử vô tội tại Mỹ. Chuyện này về sau xem phim Hồng Kông, tôi có ư nghỉ ngộ nghĩnh là Nhảy Dù dẫn Bao Công đi xử án tại Phan Rang. Về đến Tiểu đoàn, tôi báo cáo mọi chuyện, Thiếu Tá Triệu cắt tôi tiếp tục làm Sĩ quan liên lạc Lữ Đoàn đặt cạnh Bộ chỉ huy hành quân chiến cuộc của Không Quân, và nhờ phương tiện liên lạc tốt của Không Quân, tôi đă liên lạc được Hải pháo Hoa Kỳ ngoài khơi hải phận Việt Nam qua một sĩ quan liên lạc hải pháo người Việt. Tôi tŕnh bày mọi việc và yêu cầu yễm trợ hải pháo khi đụng trận, v́ hiện nay chúng tôi không c̣n pháo binh, họ chấp thuận yêu cầu trên nguyên tắc, nhưng sau đó đă lờ đi v́ Hoa Kỳ vĩnh viễn phủi tay với người bạn đồng minh. Ngày 9/4/1975 đă diễn ra một cuộc bốc quân cuối cùng và vĩ đại nhất của Không Quân Việt Nam Cộng Ḥa, Không đoàn 72 chiến thuật của Trung tá Lê Văn Bút đă dùng 40 trực thăng UH1B cộng với 12 trực thăng vơ trang, và 8 chiếc trực thăng Chinook từ phi trường Biên Ḥa ra bay ngược về Khánh Dương bốc “một slick duy nhất” được gần hết các quân nhân Lử Doàn 3 bị thất lạc gần 600 người mà đa số là Tiểu đoàn 5 Nhảy dù của Trung Tá Bùi Quyền và một số anh em Tiểu đoàn 2 và Tiểu đoàn 6 Dù, c̣n riêng các pháo đội Nhảy dù th́ sau này có người t́m ra được quốc lộ và cuối cùng về đến đơn vị chỉ được vài người, c̣n lại ngoài số bị tử trận, một số bị bắt làm tù binh như Đại úy Nguyễn Thái Chân hàng chục năm sau mới được trả tự do. Vài ngày sau, khi toàn bộ Lữ đoàn 2 Dù ra thay Lữ đoàn 3 xong, và Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi ra làm tư lệnh mặt trận Phan Rang, th́ Tiểu đoàn tôi được lệnh trở về hậu cứ Nguyễn Huệ để bổ xung lực lượng sau gần 3 năm tham chiến tại miền Trung. Qua cửa phi cơ nh́n xuống Phan Rang, quốc lộ số 1 với những hàng dừa ngút ngàn chạy song song với biển Thái B́nh Dương, tôi c̣n h́nh dung được hơn một tuần trước, ở phía dưới kia đă diễn ra một đêm hoa đăng bi thảm soi đường cho một cuộc di tản trong ṿng trật tự, v́ tự do, v́ đồng bào, chúng tôi đă ngồi dậy, và cầm súng tiếp tục chiến đấu. “Night of the Flowered Lanterns” [Đêm Hoa Đăng Bi Thảm] By Nguyen Van Lap [Nguyễn Văn Lập] |
1 Attachment(s)
Xuân nhớ bạn!
Ngoài trời mưa xuân đến sớm nhưng sao buốt lạnh quá chừng, khiến cho ta thêm buồn rầu trong bóng tối một tết tha hương. Dường như có ai đang hát ru Những T́nh Khúc Chiến Trường giúp ta nhắp một chút men nồng để thấy lại ngày xưa, để ta d́u ta trở về trong kỷ niệm buồn vui của đời lính với những tết không bao giờ quên được dù nay bạn bè người c̣n kẻ mất, trong đó có rất nhiều anh em đă gục chết ngay giữa tuổi thanh xuân mộng thắm tràn đầy. Giữa đồi sương và gió T́nh cờ ta ghé qua Ngu ngơ nh́n ngọn cỏ Quanh mộ đời phôi pha Giun dế đọc giùm ta. Tên một loài dễ vỡ Chim một bầy gọi nhỏ Tên một loài hư vô Người ôm bờ huyệt lạnh Ngủ cùng đất ngàn năm Ta ôm đời lẽ bạn Mang mang sầu quanh quanh… (Chinh Yên một chiều viếng mộ bạn) |
TẾT VỀ LẠI NHỚ NHỮNG TẾT THA PHƯƠNG CỦA ĐỜI LÍNH TRẬN VNCH !
TẾT VỀ LẠI NHỚ NHỮNG TẾT THA PHƯƠNG CỦA ĐỜI LÍNH TRẬN VNCH ! Chợt nhớ xuân nào trên chiến địa, Tao mày hiu hắt đón xuân chơi Một thằng bộ binh đời như bỏ Một đứa nhảy dù cũng tả tơi.. ![]() Bốn câu thơ củ mới đó mà đă mấy mươi mùa thương nhớ, càng khiến cho người lính già thêm trơ trọi lạc lơng, giữa tối ba mươi lạnh lẽo nơi chón quê người.. Trong quán khách bên đường, ta một ḿnh sóng đôi với ngọn đèn hiu hắt, qua đêm lại một năm buồn. Rượu chưa nhắp mà môi dă muốn cay sè, ngoài trời con chim kỹ niệm vẫn như thiết tha giục giă dù khói lửa đă ngưng trên chiến địa, bạn bè cũng không c̣n quan hà cạn chén ly bôi, sau những tiếng tỳ bà nhặt khoan nức nỡ. Tan tác, chia xa giờ đây chúng ta đang lang thang như mây chiều, sau những năm tháng đă giốc ngược đời ḿnh cho quê hương. Lính là thế đó, buồn nhiều vui ít với một chút nhun nhén t́nh cờ bắt gặp, trên các nẽo đường hành quân vô định, qua dăm ba ngày Tết dưỡng quân hay canh giặc chốn tiền đồn lẽ loi ngoài quan tái. Ai đă từng là lính mới căm thông cho lính, sống thật cô đơn lếch thếch và chết cũng rất hiu hắt ngậm ngùi. Thời gian và không gian đời lính cũng chẳng qua chỉ là một cái mốc vô t́nh để biết ta hiện hửu. Nhưng thôi tiếc làm ǵ ai biểu ta sinh ra làm trai hùng đất Việt ? nên phải chấp nhận kiếp lính : “ Ôm yên gối trống đă chồn, nằm vùng cát trắng ngủ cồn rêu xanh “ để rồi thui thủi - “ Đêm từng đêm ngó mông lung, ôm cây súng lạnh hát rừng mà nghe “.. Gần mười ba năm lính tết nào cũng tết tha hương, xuân ở đâu cũng xuân lữ thứ. Đêm trừ tịch giữa tối ba mươi cái khoảnh khắc năm củ sắp tàn, khi mà mọi nhà chặt then kín cửa, để sửa soạn đón giao thừa trong niềm hạnh phúc của gia đ́nh, th́ lính cũng đón chào năm mới trong chiếc hầm trốn đạn hay mái cḥi canh giặc đen tối lạnh băng. Nhớ từ đâu bổng kéo tới, vây kín cái không gian nhỏ hẹp này. Ngoài trời mưa xuân đến sớm nhưng sao buốt lạnh quá chừng,khiến cho ta thêm buồn rầu trong bóng tối một tết tha hương. Dường như có ai đang hát ru một khúc t́nh ca của lính, nhắp một chút men nồng để thấy lại ngày xưa, để ta d́u ta trở về những mùa xuân củ, những tết không bao giờ quên được trong cuộc đời 1 - TẾT LÍNH ĐẦU TIÊN TRÊN RỪNG NÚI MIỀN TÂY BẮC B̀NH THUẬN : ![]() Ma Lâm xưa nay vẫn là cửa ngỏ để nhập vào vùng tây bắc B́nh Thuận hùng vĩ và đầy huyền thoại. Ma Lâm là thủ phủ của quận Thiện Giáo, nằm giữa châu thổ ph́ nhiêu của con sông Cả (Quao) phát nguyên tại Di Linh và ra biển Đông tại cửa Phú Hài. Quốc lộ 12 hay c̣n gọi là Liên tỉnh lộ 8 chạy ngang qua đây, được hoàn thành ngày 1-10-1914 từ Phan Thiết đi Di Linh. Đây là biên địa cuối cùng của Vương quốc Chiêm Thành trước khi mất nước vào năm 1693, nên có nhiều người Chàm và Thượng Ba Phủ sống tại các xă Ma Lâm Chàm, Phú Nhiêu, Sông Trao, Trịnh Ḥa, Tịnh Mỹ. Tuy những địa danh như Rừng Đú, Mang Tố, Làng Chăo, Vũng Dao.. và các câu chuyện xưa về người Chàm trên mănh đất B́nh Thuận, theo thời gian tan biến vào cát bụi nhưng vẫn muôn đời vẫn c̣n là huyền thoại đẹp của một thời vang bóng. V́ địa thế hiểm trở lại thêm chinh chiến triền miền nên quốc lộ gần như bị bỏ hoang, cũng như hầu hết miền tây bắc bi quên lăng, để mặc cho người Thượng tha hồ đốt rừng bừa bải làm rẫy, dù vùng này nếu ruộng đất được khai thác, cũng đủ cung ứng nhu cầu lúa gạo cho nhiều người trong tỉnh. Gần Tết Nguyên Đán năm 1964, chúng tôi gồm mười lăm đứa măn khóa từ Sài G̣n bổ sung cho Trung Đoàn 43 biệt lập, lúc đó do Thiếu Tá Vơ văn Cảnh (sau lên chuẩn tướng là tư lệnh Sư đoàn 23 bộ binh năm 1972), làm Trung Đoàn Trưởng kiêm Biệt Khu Trương Biệt Khu B́nh Lâm, trách nhiệm ba tỉnh B́nh Tuy-B́nh Thuận-Lâm Đồng. Bộ chỉ huy biệt khu đóng tại quân Di Linh với Đại đội Trọng Pháo của Đại Uư Ngô Tất Tống và Tiểu đoàn 3/43 của Đại Uư Công. Riêng Tiểu đoàn 1/43 của Đại Uư Ngô văn Diệp (tử trận năm 1965 tại Trảng Bàng) và Tiểu đoàn 2/43 của Đại Úy Hai, th́ hành quân thường trực tại B́nh Tuy-Phan Thiết. ![]() Ngày đầu tiên về đơn vị lại là ngày cuối năm, nên khi xe lủa tới Đà Lạt vào buổi chiều cũng là lúc thiên hạ đang rộn rịp chuẩn bị đón giao thừa. Cao nguyên Lâm Viên mùa Tết, nên trời rét căm căm. Bọn chúng tôi đều sinh trưởng tại miền biển và đồng bằng sông Cửu Long, nên chịu không thấu với cái lạnh cát da tím thịt nơi chốn biên tái, trong bộ đồ trận mỏng manh, qua đêm đầu tiên tại nhà văng lai của Tiểu Khu Tuyên Đức. Viết sao cho hết nổi buồn rầu của bọn lính xa nhà trong đêm trừ tịch ? dù tết Đà Lạt thật tuyệt vời, khiến ta cứ ngỡ như ḿnh đang lạc lối đào nguyên giữa hoa và người đẹp, cả hai sắc hương dường như đang cùng với mây trời ngạt ngào trong sương giá. Đà Lạt đêm xuân thú vui không kể xiết, khắp phường phố thiên hạ quần áo là lượt hạnh phúc, gắn bó từng cặp, từng đôi trong muôn màu đam mê rực rỡ nhưng với bọn lính mới đầu đời, Đà Lạt lại vô t́nh hờ hửng. Bởi vậy mười mấy đứa đều mong mau sáng, để sớm trả lại cái thiên đường hạnh phúc mà trời trót dành cho những giai nhân tài tử. Rồi th́ chia tay, dăm đứa gọi là kém may mắn khi về Tiểu đoàn 3/43 gần mặt trời. Số c̣n lại bổ sung cho Tiểu đoàn 1 và 2/43. Một cuộc hành quân mở ra vào ngày mùng ba tết nguyên đán, mục đich khai thông quốc lộ 12, đưa lính mới và quân trang quân dụng bổ sung cho hai đơn vị tại B́nh Thuận. Nhờ vậy mới có dịp hưởng được một cái tết núi rừng vui nhộn với người Koho quanh bếp lửa hồng. Bộ tộc Koho sống đông đảo tại cao nguyên nam Trung Phần, có nguồn gốc pha trộn từ nhiều sắc dân Chàm, Mă Lai, Indonesian và Chân Lạp.. gồm các bộ lạc Churu, Noang, Sre, Maa, Sil, Toa, Queyong, Lat, Nop, Kodiong, Nam.. chủ yếu sống tại các tỉnh Quảng Đức, Tuyên Đức, Lâm Đồng,B́nh Thuận, B́nh Tuy và Long Khánh. Được vui Tết với người Koho là một thích thú tột cùng, v́ ngoài việc được ăn uống tự do, c̣n hưởng được t́nh người qua cử chỉ, một hành động đối với người Việt trong thời chinh chiến, hầu như đă mất mát hay nếu c̣n cũng chẳng qua là sự giả tạo hay lớp phấn hào nhoáng bên ngoài. V́ lộ tŕnh bị bỏ hoang lâu ngày,không được sửa chữa và xử dụng nên khắp nơi đầy ổ voi ổ gà. Thêm vào đó là nhiều đèo cao với vô số khúc quanh co lên trời, xuống lủng. Do vậy đoàn xe di chuyển rất chậm v́ phải mở đường và tu bổ quan lộ, nên đêm đó phải đóng quân và cũng là dịp ngàn năm một thuở được chủ làng trong buôn Koho, tai thung lũng Klonodium sát đường mời ăn Tết. Theo truyền thống, buổi lễ được tổ chức giữa sân nhà Hội Đồng. Tất cả đều là sự quyên góp chung từ củi đốt, trâu ḅ tới rượu cần. Quang cảnh đêm Tết thật hấp dẫn với đống củi cao như núi đủ rực sáng suốt đêm, mấy trăm hủ rượu cần và ba con trâu cột sẳn quanh các hàng cộc được chạm trổ. Khắp nơi c̣n có những cây phướng, nêu và cờ xí càng tăng thêm nét đẹp và trang nghiêm trong ngày Tết. Rồi lúc ráng chiều vừa khuất sau rặng núi Bà cao đen thăm thẳm đầy huyền bí, cũng là lúc chiêng trống nơi nhà Hội Đồng trổi dậy, thúc dục dồn dập như tiếng trống trận xua quân, kêu gọi mọi người trong Buôn tề tựu nơi bếp lửa hồng vừa cất cao ngọn. Tiếng lửa lách tách nổ vui tai, cộng với tiếng người chuyện tṛ huyên náo. Nam nử, già trẻ vui Tết ăn mặc quần áo đẹp và mới nhất của họ, dù chỉ là thứ vải bâu thô thiển. ![]() Ở đây hoa nhiều không đếm hết nhưng cũng không có hoa ǵ đẹp hơn hoa mai khiến đêm thêm ngát, làm cho lính đă ngây ngất bên ché rượu cần, lại càng ngẩn ngơ hóa bướm v́ tiếng hát ngây thơ hồn nhiên của các cô gái vùng cao. Hỡi ôi kỷ niệm mấy chục năm qua rồi, mà sao trong hồn mỗi lần chợt nhớ, dường như lại muốn khựng khi tưởng tới vị chua chua của rượu cần và mú hương hoa núi rừng tây bắc. Sáng tinh sương lính lại lên đường, không được như người Koho sung sướng tiếp tục cuộc vui Tết quanh các gia đ́nh, cho đến hết tháng giêng mới chấm dứt khi cả Buôn không c̣n rượu và thịt.: “ Ớ chàng trai lính ơi, đùng quên đêm nay bên vũ điệu Lam Tơi, đôi ta t́nh cờ quen nhau ngắn ngũi nhưng em nguyện chờ chàng trở về ..” 2 - NHỮNG NGÀY TIỀN ĐỒN Ở TÙNG NGHĨA, TUYÊN ĐỨC : Sau hiệp định Genève 1954 chia đôi đất nước , một số người Thái sinh sống tại tỉnh Lai Châu đă từ bỏ thiên đàng xă nghĩa miền bắc, di cư vào Nam để t́m tự do và lập nghiệp tại xă Tùng Nghĩa, quận Đức Trọng, tỉnh Tuyên Đức, gần phi trường Liên Khương ngả ba Di Linh-Đà Lạt-Đơn Dương. Thời tiền chiến, Hoàng Ly đă viết bộ tiểu thuyết trường thiên dă sử nổi tiếng : - “ Lửa hận rừng xanh”, hư cấu cuộc đời của Tù trường Đèo văn Lang, vua của người Thái đen Thái trắng sống ở miền tây bắc Lai Châu rộng lớn , từ Phong Thồ, Nậm Nà tới Mường Lay, Mường Tè, Bản Pháp.. xứ sở của hoa ban, loài hoa trắng mọc chênh vênh ven vách núi, mùa xuân nở trắng núi đồi xứ Thái. “ Đón giao thừa một phiên gác đêm chào xuân đến súng xa vang rền Xác hoa tàn rơi trên bán súng.. ngỡ rằng pháo tung bay, nào ngờ hoa lá rơi” Bài hát cũ của nhạc sỹ Nguyễn văn Đông mấy chục năm về trước, nay sao vẫn nhớ như niềm nhớ về một cái tết xa xưa rất t́nh cờ với đồng bào Thái Trắng, khi tiểu đoàn nằm tiền đồn, giữ an ninh ngoài ṿng đai Tùng Nghĩa. Theo phong tục cổ truyền, hầu như tất cả các dân tộc thiểu số vùng thượng, trung Bắc Việt cũng như cao nguyên Trung Phần, hằng năm đều có nhiều lễ hội. Người Thái cũng vậy nhưng quan trọng hơn hết đối với họ vẫn là Tết Nguyên Đán NEN BƯƠNG TIÊN, thường được tổ chức tiếp theo Lệ ăn cơm mới và uống rượu Kim Lao Mao, mừng trúng mùa, cũng như ngày Tết Thần Táo vào tối đêm 23 tháng chạp, cũng giống như người Việt, rất trọng thể khắp mọi nhà, mọi đ́nh làng với lễ vật gồm gà, xôi, rượu, vàng giấy và hoa quả. Người Thái sống lâu năm trên đất Việt nên Tết Nguyên Đán gần giống người Kinh, nhất là từ khi họ di cư vào miền Nam. Đêm giao thừa, mọi người đều ăn mặc quần áo mới, sặc sở và diêm dúa nhất vẫn là các cô gái chưa chồng trong lễ hội “ Tung Cầu “ với thanh niên chưa vợ, để rồi sau đó từng cặp sóng sánh cười vui, qua cuộc t́nh đầu xuân vừa chớm nở. “Chốn biên thuỳ này xuân tới chi, t́nh lính chiến khác chi bao người” , nên đêm tiền đồn được vui ké với bản làng một cái tết vui nhộn từ đầu thôn tới cuối ấp, nơi nào cũng vang vang tiếng pháo, khiến người lính trẻ xa nhà chạnh ḷng để rơi nước mắt, khi nhớ về những ngày xuân củ, nhớ màu hoa cúc hoa mai, tết đến nở tṛn như mắt môi em một thời tuổi học : - “ Tay anh gh́ nhẹ trên báng súng, cứ ngỡ cùng em sóng bước xuân 3 - ĐÊM CHỜ TÊT NGOÀI V̉NG ĐAI ÂP CÂY BÀI (CỦ CHI) : Cuối năm 1964, toàn bộ Trung Đoàn 43 biệt lập từ Di Linh tăng phái hành quân cho khu 32 chiến thuật trách nhiệm tỉnh Hậu Nghĩa nhưng chủ yếu là tại quận Củ Chi bảo vệ an ninh cho các xă : - B́nh Mỹ - Tân Thạnh - Trung An - Phú Ḥa Đông - Phước Vĩnh An - Tân Phú Trung - Tân Thông - Nhuận Đức - Trung Lập - Phước Hiệp - Thái Mỹ - An Nhơn Tây - Phú Mỹ Hưng và phố huyện Tân An Hội nằm trên quốc lộ 1từ Sài G̣n đi Tây Ninh. Lúc đó, BCH Trung đoàn đóng tại Tân Thông, các tiểu đoàn 2 và 3/43 nằm tiền đồn khắp các xă xôi đậu. Riêng Tiểu đoàn 1/43 được dưởng quân ba ngày Tết tại Quận, v́ đă lội suốt một năm khắp các chiến trường Phan Thiết, B́nh Tuy, Long Khánh, B́nh Dương, B́nh Long và Hậu Nghĩa. Cũng v́ vậy, Ban 5 /TĐ đă soạn thảo nhiều chương tŕnh để lính và gia đ́nh vui một cái Tết đặc biệt tại hậu phương. Ngày ba mươi tháng chạp đơn vị xuất tiền hành quân, công thêm tiền thưởng của Tỉnh và Trung Đoàn, giao cho Ban 4 ra chợ Củ Chi mua sắm gà, vịt, heo, ḅ, bánh trái và rượu đế Bà Điểm làm tiệc tất niên. Lúc đó, đa số lính của TD là người Trung, nên trong dịp Tết chỉ có một số nhỏ có gia đ́nh tại Sài G̣n và vùng lân cận được phép miệng về thăm gia đ́nh, c̣n hầu như là ở lại với đơn vị. V́ khỏi trực gác, nên lính tha hồ rong chơi khắp hàng quán, dù phố lỵ Củ Chi nhỏ xiú và buồn hiu, lưa thưa vài hàng quán và cái lồng chợ cũng bé bỏng khiêm nhượng. Cũng may quận nằm trên quốc lộ 1, nên có rất nhiều xe đ̣ xuội ngược Sài G̣n-Trảng Bàng-Tây Ninh.. cũng như ngả rẽ tới Bầu Trai, Hiệp Ḥa, Đức Huệ.. Đứng bên đường,nh́n trộm những người đẹp ngồi trên xe, đang hối hả mua quà vật khi xe ngừng, hồn lính cũng cảm thấy phần nào vơi đi nổi nhớ nhà. Ở đây mùa đông không lạnh lắm so với Phan Thiết nhưng gíó nhiều nên cũng tái tê se sắt. Bao nhiêu năm lính, lần đầu được vui một cái tết thị thành cũng thấy an ủi phần nào . Nhưng Tết chưa tới, tiệc cũng c̣n đang sửa soạn, th́ lệnh hành quân khẩn cấp từ Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn ban xuống. Quân báo và an ninh Tiểu đoàn lái xe ruồng bố khắp nơi để gom lính, làm cho người Củ Chi ngạc nhiên tuá ra đường ḍm ngó, như thể họ đang xem hát tuồng. ![]() Và rồi nửa giờ sau Tiểu đoàn 1/43 lại lên đường, lính chỉ mang theo súng đan và nước uống với nhiệm vụ giải toả Ấp Cây Bài vừa bị giặc lợi dụng lệnh hưu chiến, từ mật khu Hố Ḅ tràn vào chiếm Ấp và bắt đồng bào làm con tin đỡ đạn. Quân ra đi như bóng ma đói, ai cũng phờ phạc buồn rầu thấy rơ, đầu gục xuống súng vác vai, bất kể đội h́nh kỹ luật, im lặng như hến. Thế là thêm năm nửa tàn mộng tết-xuân. ![]() Bốn giờ rưỡi chiều ba mươi Tết Tiểu đoàn 1/43 đă có mặt ngoài ṿng đai Ấp, trong khi đó toàn bộ Trung Đoàn đều tham dự cuộc hành quân này và các đơn vị đang dần xiết ṿng vây. Súng nổ khắp bốn hướng giữa ta và địch, từ trong Ấp cho tới Làng Paris Tân Qui, Bến Cỏ, Phú Ḥa, Ấp Nhà Việt.. chổ nào cũng có đụng lớn. Riêng TD 1/43 án ngử ngay con đường tỉnh lộ dẫn vào Ấp, đường đă bỉ cày xới tan nát. Ấp nằm trong tầm ngó nhưng mù mịt v́ bom đạn lửa khói và rừng cao su ngút ngàn che phủ. Cánh đồng lúa ven làng đang bắt đầu ươm hạt, mùi thơm sữa lúa theo gió thoang thoảng khắp nơi, mũi ṃng từng đàn đáp đậu trên da thịt, tha hồ xơi tái lính. Trong cảnh buồn rầu thê thiết, ai cũng thẩn thờ quên đau v́ muỗi chích khi nghĩ tới đồng bào vô tôi đang nằm giữa dao thớt chiến tranh, trong khi các nơi khác mọi nhà đang rộn ríp náo nức đón xuân về. Thời gian qua thật chậm, chiến trường vẫn sôi sục bom đạn. C̣i thúc quân vang dậy dồn dập nhưng lính vẫn không tiến nổi v́ các khẩu súng cộng đồng của giặc từ các cao điểm trong Ấp bắn chận dữ dội, khiến cho lính Tiểu đoàn 1/43 lần hồi rụng tă tơi như mấy cánh mai vàng trước gió xuân tơi tả, khi tiệc tất niên chưa kịp hưởng đă vội về với đất lạnh.:112: Thân phận của người lính trận VNCH là như vậy, làm sao mà không buồn không hận và không than trách cho kiếp đời hẵm hiu héo úa ?:112: ![]() Không thể làm ǵ hơn, nên Bộ Chỉ Huy hành quân đă xin Khu chiến thuật nhờ không quân can thiệp. Màn đêm hững hờ buông rèm gói trọn vạn vật, chỉ c̣n nghe tiếng L19 và Khu trục cơ Skyraider vần vũ dội bom bắn phá mục tiêu. Xa xa về hường Sài G̣n, trời sáng hồng trong đêm tối, giờ này thiên hạ đang vui say chè chén nhảy nhót và hạnh phúc. Nên chắc không ai hoài công nghĩ tới, lúc đó tại một thôn xóm hẻo lánh nghèo nàn, có không biết bao nhiêu người, dân cũng như lính, địch lẫn ta đang lặn lội trong bom đan, chỉ mong được phép lạ để sống c̣n. Suốt đêm trừ tịch, máy bay liên tục dội bom, Ấp Cây Bài đắm ch́m trong biển lửa. Ngoài ŕa ấp Tiểu đoàn nằm chờ trời sáng ai cũng đói lạnh nên nhiều người mặc kệ lăn kềnh trên đất ngáy kḥ, bất kể cái chết kề cận. Tờ mờ mồng một Tết, quân vào Ấp trong nổi thê lương tận tuyệt. Khắp nơi chỉ là nổi chết từ người tới trâu ḅ heo chó. Giặc đă chém vè bằng các đường giao thông hào, bỏ lại nhiều tử thi lơa lồ bất động. Chiến tranh tàn nhẩn, oan nghiệt khiến suốt đời lính không quên được h́nh ảnh chết chóc [/i][/color][/size][/b]của những người dân lành vô tội, giữa nhang đẻn bánh mứt.. chờ đón xuân về. C̣n tiếp , |
TẾT VỀ LẠI NHỚ NHỮNG TẾT THA PHƯƠNG CỦA ĐỜI LÍNH TRẬN VNCH ! Chợt nhớ xuân nào trên chiến địa, Tao mày hiu hắt đón xuân chơi Một thằng bộ binh đời như bỏ Một đứa nhảy dù cũng tả tơi.. ![]() Bốn câu thơ củ mới đó mà đă mấy mươi mùa thương nhớ, càng khiến cho người lính già thêm trơ trọi lạc lơng, giữa tối ba mươi lạnh lẽo nơi chón quê người.. Trong quán khách bên đường, ta một ḿnh sóng đôi với ngọn đèn hiu hắt, qua đêm lại một năm buồn. Rượu chưa nhắp mà môi dă muốn cay sè, ngoài trời con chim kỹ niệm vẫn như thiết tha giục giă dù khói lửa đă ngưng trên chiến địa, bạn bè cũng không c̣n quan hà cạn chén ly bôi, sau những tiếng tỳ bà nhặt khoan nức nỡ. Tan tác, chia xa giờ đây chúng ta đang lang thang như mây chiều, sau những năm tháng đă giốc ngược đời ḿnh cho quê hương. Lính là thế đó, buồn nhiều vui ít với một chút nhun nhén t́nh cờ bắt gặp, trên các nẽo đường hành quân vô định, qua dăm ba ngày Tết dưỡng quân hay canh giặc chốn tiền đồn lẽ loi ngoài quan tái. Ai đă từng là lính mới căm thông cho lính, sống thật cô đơn lếch thếch và chết cũng rất hiu hắt ngậm ngùi. Thời gian và không gian đời lính cũng chẳng qua chỉ là một cái mốc vô t́nh để biết ta hiện hửu. Nhưng thôi tiếc làm ǵ ai biểu ta sinh ra làm trai hùng đất Việt ? nên phải chấp nhận kiếp lính : “ Ôm yên gối trống đă chồn, nằm vùng cát trắng ngủ cồn rêu xanh “ để rồi thui thủi - “ Đêm từng đêm ngó mông lung, ôm cây súng lạnh hát rừng mà nghe “.. Gần mười ba năm lính tết nào cũng tết tha hương, xuân ở đâu cũng xuân lữ thứ. Đêm trừ tịch giữa tối ba mươi cái khoảnh khắc năm củ sắp tàn, khi mà mọi nhà chặt then kín cửa, để sửa soạn đón giao thừa trong niềm hạnh phúc của gia đ́nh, th́ lính cũng đón chào năm mới trong chiếc hầm trốn đạn hay mái cḥi canh giặc đen tối lạnh băng. Nhớ từ đâu bổng kéo tới, vây kín cái không gian nhỏ hẹp này. Ngoài trời mưa xuân đến sớm nhưng sao buốt lạnh quá chừng,khiến cho ta thêm buồn rầu trong bóng tối một tết tha hương. Dường như có ai đang hát ru một khúc t́nh ca của lính, nhắp một chút men nồng để thấy lại ngày xưa, để ta d́u ta trở về những mùa xuân củ, những tết không bao giờ quên được trong cuộc đời 1 - TẾT LÍNH ĐẦU TIÊN TRÊN RỪNG NÚI MIỀN TÂY BẮC B̀NH THUẬN : ![]() Ma Lâm xưa nay vẫn là cửa ngỏ để nhập vào vùng tây bắc B́nh Thuận hùng vĩ và đầy huyền thoại. Ma Lâm là thủ phủ của quận Thiện Giáo, nằm giữa châu thổ ph́ nhiêu của con sông Cả (Quao) phát nguyên tại Di Linh và ra biển Đông tại cửa Phú Hài. Quốc lộ 12 hay c̣n gọi là Liên tỉnh lộ 8 chạy ngang qua đây, được hoàn thành ngày 1-10-1914 từ Phan Thiết đi Di Linh. Đây là biên địa cuối cùng của Vương quốc Chiêm Thành trước khi mất nước vào năm 1693, nên có nhiều người Chàm và Thượng Ba Phủ sống tại các xă Ma Lâm Chàm, Phú Nhiêu, Sông Trao, Trịnh Ḥa, Tịnh Mỹ. Tuy những địa danh như Rừng Đú, Mang Tố, Làng Chăo, Vũng Dao.. và các câu chuyện xưa về người Chàm trên mănh đất B́nh Thuận, theo thời gian tan biến vào cát bụi nhưng vẫn muôn đời vẫn c̣n là huyền thoại đẹp của một thời vang bóng. V́ địa thế hiểm trở lại thêm chinh chiến triền miền nên quốc lộ gần như bị bỏ hoang, cũng như hầu hết miền tây bắc bi quên lăng, để mặc cho người Thượng tha hồ đốt rừng bừa bải làm rẫy, dù vùng này nếu ruộng đất được khai thác, cũng đủ cung ứng nhu cầu lúa gạo cho nhiều người trong tỉnh. Gần Tết Nguyên Đán năm 1964, chúng tôi gồm mười lăm đứa măn khóa từ Sài G̣n bổ sung cho Trung Đoàn 43 biệt lập, lúc đó do Thiếu Tá Vơ văn Cảnh (sau lên chuẩn tướng là tư lệnh Sư đoàn 23 bộ binh năm 1972), làm Trung Đoàn Trưởng kiêm Biệt Khu Trương Biệt Khu B́nh Lâm, trách nhiệm ba tỉnh B́nh Tuy-B́nh Thuận-Lâm Đồng. Bộ chỉ huy biệt khu đóng tại quân Di Linh với Đại đội Trọng Pháo của Đại Uư Ngô Tất Tống và Tiểu đoàn 3/43 của Đại Uư Công. Riêng Tiểu đoàn 1/43 của Đại Uư Ngô văn Diệp (tử trận năm 1965 tại Trảng Bàng) và Tiểu đoàn 2/43 của Đại Úy Hai, th́ hành quân thường trực tại B́nh Tuy-Phan Thiết. ![]() Ngày đầu tiên về đơn vị lại là ngày cuối năm, nên khi xe lủa tới Đà Lạt vào buổi chiều cũng là lúc thiên hạ đang rộn rịp chuẩn bị đón giao thừa. Cao nguyên Lâm Viên mùa Tết, nên trời rét căm căm. Bọn chúng tôi đều sinh trưởng tại miền biển và đồng bằng sông Cửu Long, nên chịu không thấu với cái lạnh cát da tím thịt nơi chốn biên tái, trong bộ đồ trận mỏng manh, qua đêm đầu tiên tại nhà văng lai của Tiểu Khu Tuyên Đức. Viết sao cho hết nổi buồn rầu của bọn lính xa nhà trong đêm trừ tịch ? dù tết Đà Lạt thật tuyệt vời, khiến ta cứ ngỡ như ḿnh đang lạc lối đào nguyên giữa hoa và người đẹp, cả hai sắc hương dường như đang cùng với mây trời ngạt ngào trong sương giá. Đà Lạt đêm xuân thú vui không kể xiết, khắp phường phố thiên hạ quần áo là lượt hạnh phúc, gắn bó từng cặp, từng đôi trong muôn màu đam mê rực rỡ nhưng với bọn lính mới đầu đời, Đà Lạt lại vô t́nh hờ hửng. Bởi vậy mười mấy đứa đều mong mau sáng, để sớm trả lại cái thiên đường hạnh phúc mà trời trót dành cho những giai nhân tài tử. Rồi th́ chia tay, dăm đứa gọi là kém may mắn khi về Tiểu đoàn 3/43 gần mặt trời. Số c̣n lại bổ sung cho Tiểu đoàn 1 và 2/43. Một cuộc hành quân mở ra vào ngày mùng ba tết nguyên đán, mục đich khai thông quốc lộ 12, đưa lính mới và quân trang quân dụng bổ sung cho hai đơn vị tại B́nh Thuận. Nhờ vậy mới có dịp hưởng được một cái tết núi rừng vui nhộn với người Koho quanh bếp lửa hồng. Bộ tộc Koho sống đông đảo tại cao nguyên nam Trung Phần, có nguồn gốc pha trộn từ nhiều sắc dân Chàm, Mă Lai, Indonesian và Chân Lạp.. gồm các bộ lạc Churu, Noang, Sre, Maa, Sil, Toa, Queyong, Lat, Nop, Kodiong, Nam.. chủ yếu sống tại các tỉnh Quảng Đức, Tuyên Đức, Lâm Đồng,B́nh Thuận, B́nh Tuy và Long Khánh. Được vui Tết với người Koho là một thích thú tột cùng, v́ ngoài việc được ăn uống tự do, c̣n hưởng được t́nh người qua cử chỉ, một hành động đối với người Việt trong thời chinh chiến, hầu như đă mất mát hay nếu c̣n cũng chẳng qua là sự giả tạo hay lớp phấn hào nhoáng bên ngoài. V́ lộ tŕnh bị bỏ hoang lâu ngày,không được sửa chữa và xử dụng nên khắp nơi đầy ổ voi ổ gà. Thêm vào đó là nhiều đèo cao với vô số khúc quanh co lên trời, xuống lủng. Do vậy đoàn xe di chuyển rất chậm v́ phải mở đường và tu bổ quan lộ, nên đêm đó phải đóng quân và cũng là dịp ngàn năm một thuở được chủ làng trong buôn Koho, tai thung lũng Klonodium sát đường mời ăn Tết. Theo truyền thống, buổi lễ được tổ chức giữa sân nhà Hội Đồng. Tất cả đều là sự quyên góp chung từ củi đốt, trâu ḅ tới rượu cần. Quang cảnh đêm Tết thật hấp dẫn với đống củi cao như núi đủ rực sáng suốt đêm, mấy trăm hủ rượu cần và ba con trâu cột sẳn quanh các hàng cộc được chạm trổ. Khắp nơi c̣n có những cây phướng, nêu và cờ xí càng tăng thêm nét đẹp và trang nghiêm trong ngày Tết. Rồi lúc ráng chiều vừa khuất sau rặng núi Bà cao đen thăm thẳm đầy huyền bí, cũng là lúc chiêng trống nơi nhà Hội Đồng trổi dậy, thúc dục dồn dập như tiếng trống trận xua quân, kêu gọi mọi người trong Buôn tề tựu nơi bếp lửa hồng vừa cất cao ngọn. Tiếng lửa lách tách nổ vui tai, cộng với tiếng người chuyện tṛ huyên náo. Nam nử, già trẻ vui Tết ăn mặc quần áo đẹp và mới nhất của họ, dù chỉ là thứ vải bâu thô thiển. ![]() Ở đây hoa nhiều không đếm hết nhưng cũng không có hoa ǵ đẹp hơn hoa mai khiến đêm thêm ngát, làm cho lính đă ngây ngất bên ché rượu cần, lại càng ngẩn ngơ hóa bướm v́ tiếng hát ngây thơ hồn nhiên của các cô gái vùng cao. Hỡi ôi kỷ niệm mấy chục năm qua rồi, mà sao trong hồn mỗi lần chợt nhớ, dường như lại muốn khựng khi tưởng tới vị chua chua của rượu cần và mú hương hoa núi rừng tây bắc. Sáng tinh sương lính lại lên đường, không được như người Koho sung sướng tiếp tục cuộc vui Tết quanh các gia đ́nh, cho đến hết tháng giêng mới chấm dứt khi cả Buôn không c̣n rượu và thịt.: “ Ớ chàng trai lính ơi, đùng quên đêm nay bên vũ điệu Lam Tơi, đôi ta t́nh cờ quen nhau ngắn ngũi nhưng em nguyện chờ chàng trở về ..” 2 - NHỮNG NGÀY TIỀN ĐỒN Ở TÙNG NGHĨA, TUYÊN ĐỨC : Sau hiệp định Genève 1954 chia đôi đất nước , một số người Thái sinh sống tại tỉnh Lai Châu đă từ bỏ thiên đàng xă nghĩa miền bắc, di cư vào Nam để t́m tự do và lập nghiệp tại xă Tùng Nghĩa, quận Đức Trọng, tỉnh Tuyên Đức, gần phi trường Liên Khương ngả ba Di Linh-Đà Lạt-Đơn Dương. Thời tiền chiến, Hoàng Ly đă viết bộ tiểu thuyết trường thiên dă sử nổi tiếng : - “ Lửa hận rừng xanh”, hư cấu cuộc đời của Tù trường Đèo văn Lang, vua của người Thái đen Thái trắng sống ở miền tây bắc Lai Châu rộng lớn , từ Phong Thồ, Nậm Nà tới Mường Lay, Mường Tè, Bản Pháp.. xứ sở của hoa ban, loài hoa trắng mọc chênh vênh ven vách núi, mùa xuân nở trắng núi đồi xứ Thái. “ Đón giao thừa một phiên gác đêm chào xuân đến súng xa vang rền Xác hoa tàn rơi trên bán súng.. ngỡ rằng pháo tung bay, nào ngờ hoa lá rơi” Bài hát cũ của nhạc sỹ Nguyễn văn Đông mấy chục năm về trước, nay sao vẫn nhớ như niềm nhớ về một cái tết xa xưa rất t́nh cờ với đồng bào Thái Trắng, khi tiểu đoàn nằm tiền đồn, giữ an ninh ngoài ṿng đai Tùng Nghĩa. Theo phong tục cổ truyền, hầu như tất cả các dân tộc thiểu số vùng thượng, trung Bắc Việt cũng như cao nguyên Trung Phần, hằng năm đều có nhiều lễ hội. Người Thái cũng vậy nhưng quan trọng hơn hết đối với họ vẫn là Tết Nguyên Đán NEN BƯƠNG TIÊN, thường được tổ chức tiếp theo Lệ ăn cơm mới và uống rượu Kim Lao Mao, mừng trúng mùa, cũng như ngày Tết Thần Táo vào tối đêm 23 tháng chạp, cũng giống như người Việt, rất trọng thể khắp mọi nhà, mọi đ́nh làng với lễ vật gồm gà, xôi, rượu, vàng giấy và hoa quả. Người Thái sống lâu năm trên đất Việt nên Tết Nguyên Đán gần giống người Kinh, nhất là từ khi họ di cư vào miền Nam. Đêm giao thừa, mọi người đều ăn mặc quần áo mới, sặc sở và diêm dúa nhất vẫn là các cô gái chưa chồng trong lễ hội “ Tung Cầu “ với thanh niên chưa vợ, để rồi sau đó từng cặp sóng sánh cười vui, qua cuộc t́nh đầu xuân vừa chớm nở. “Chốn biên thuỳ này xuân tới chi, t́nh lính chiến khác chi bao người” , nên đêm tiền đồn được vui ké với bản làng một cái tết vui nhộn từ đầu thôn tới cuối ấp, nơi nào cũng vang vang tiếng pháo, khiến người lính trẻ xa nhà chạnh ḷng để rơi nước mắt, khi nhớ về những ngày xuân củ, nhớ màu hoa cúc hoa mai, tết đến nở tṛn như mắt môi em một thời tuổi học : - “ Tay anh gh́ nhẹ trên báng súng, cứ ngỡ cùng em sóng bước xuân 3 - ĐÊM CHỜ TÊT NGOÀI V̉NG ĐAI ÂP CÂY BÀI (CỦ CHI) : Cuối năm 1964, toàn bộ Trung Đoàn 43 biệt lập từ Di Linh tăng phái hành quân cho khu 32 chiến thuật trách nhiệm tỉnh Hậu Nghĩa nhưng chủ yếu là tại quận Củ Chi bảo vệ an ninh cho các xă : - B́nh Mỹ - Tân Thạnh - Trung An - Phú Ḥa Đông - Phước Vĩnh An - Tân Phú Trung - Tân Thông - Nhuận Đức - Trung Lập - Phước Hiệp - Thái Mỹ - An Nhơn Tây - Phú Mỹ Hưng và phố huyện Tân An Hội nằm trên quốc lộ 1từ Sài G̣n đi Tây Ninh. Lúc đó, BCH Trung đoàn đóng tại Tân Thông, các tiểu đoàn 2 và 3/43 nằm tiền đồn khắp các xă xôi đậu. Riêng Tiểu đoàn 1/43 được dưởng quân ba ngày Tết tại Quận, v́ đă lội suốt một năm khắp các chiến trường Phan Thiết, B́nh Tuy, Long Khánh, B́nh Dương, B́nh Long và Hậu Nghĩa. Cũng v́ vậy, Ban 5 /TĐ đă soạn thảo nhiều chương tŕnh để lính và gia đ́nh vui một cái Tết đặc biệt tại hậu phương. Ngày ba mươi tháng chạp đơn vị xuất tiền hành quân, công thêm tiền thưởng của Tỉnh và Trung Đoàn, giao cho Ban 4 ra chợ Củ Chi mua sắm gà, vịt, heo, ḅ, bánh trái và rượu đế Bà Điểm làm tiệc tất niên. Lúc đó, đa số lính của TD là người Trung, nên trong dịp Tết chỉ có một số nhỏ có gia đ́nh tại Sài G̣n và vùng lân cận được phép miệng về thăm gia đ́nh, c̣n hầu như là ở lại với đơn vị. V́ khỏi trực gác, nên lính tha hồ rong chơi khắp hàng quán, dù phố lỵ Củ Chi nhỏ xiú và buồn hiu, lưa thưa vài hàng quán và cái lồng chợ cũng bé bỏng khiêm nhượng. Cũng may quận nằm trên quốc lộ 1, nên có rất nhiều xe đ̣ xuội ngược Sài G̣n-Trảng Bàng-Tây Ninh.. cũng như ngả rẽ tới Bầu Trai, Hiệp Ḥa, Đức Huệ.. Đứng bên đường,nh́n trộm những người đẹp ngồi trên xe, đang hối hả mua quà vật khi xe ngừng, hồn lính cũng cảm thấy phần nào vơi đi nổi nhớ nhà. Ở đây mùa đông không lạnh lắm so với Phan Thiết nhưng gíó nhiều nên cũng tái tê se sắt. Bao nhiêu năm lính, lần đầu được vui một cái tết thị thành cũng thấy an ủi phần nào . Nhưng Tết chưa tới, tiệc cũng c̣n đang sửa soạn, th́ lệnh hành quân khẩn cấp từ Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn ban xuống. Quân báo và an ninh Tiểu đoàn lái xe ruồng bố khắp nơi để gom lính, làm cho người Củ Chi ngạc nhiên tuá ra đường ḍm ngó, như thể họ đang xem hát tuồng. ![]() Và rồi nửa giờ sau Tiểu đoàn 1/43 lại lên đường, lính chỉ mang theo súng đan và nước uống với nhiệm vụ giải toả Ấp Cây Bài vừa bị giặc lợi dụng lệnh hưu chiến, từ mật khu Hố Ḅ tràn vào chiếm Ấp và bắt đồng bào làm con tin đỡ đạn. Quân ra đi như bóng ma đói, ai cũng phờ phạc buồn rầu thấy rơ, đầu gục xuống súng vác vai, bất kể đội h́nh kỹ luật, im lặng như hến. Thế là thêm năm nửa tàn mộng tết-xuân. ![]() Bốn giờ rưỡi chiều ba mươi Tết Tiểu đoàn 1/43 đă có mặt ngoài ṿng đai Ấp, trong khi đó toàn bộ Trung Đoàn đều tham dự cuộc hành quân này và các đơn vị đang dần xiết ṿng vây. Súng nổ khắp bốn hướng giữa ta và địch, từ trong Ấp cho tới Làng Paris Tân Qui, Bến Cỏ, Phú Ḥa, Ấp Nhà Việt.. chổ nào cũng có đụng lớn. Riêng TD 1/43 án ngử ngay con đường tỉnh lộ dẫn vào Ấp, đường đă bỉ cày xới tan nát. Ấp nằm trong tầm ngó nhưng mù mịt v́ bom đạn lửa khói và rừng cao su ngút ngàn che phủ. Cánh đồng lúa ven làng đang bắt đầu ươm hạt, mùi thơm sữa lúa theo gió thoang thoảng khắp nơi, mũi ṃng từng đàn đáp đậu trên da thịt, tha hồ xơi tái lính. Trong cảnh buồn rầu thê thiết, ai cũng thẩn thờ quên đau v́ muỗi chích khi nghĩ tới đồng bào vô tôi đang nằm giữa dao thớt chiến tranh, trong khi các nơi khác mọi nhà đang rộn ríp náo nức đón xuân về. Thời gian qua thật chậm, chiến trường vẫn sôi sục bom đạn. C̣i thúc quân vang dậy dồn dập nhưng lính vẫn không tiến nổi v́ các khẩu súng cộng đồng của giặc từ các cao điểm trong Ấp bắn chận dữ dội, khiến cho lính Tiểu đoàn 1/43 lần hồi rụng tă tơi như mấy cánh mai vàng trước gió xuân tơi tả, khi tiệc tất niên chưa kịp hưởng đă vội về với đất lạnh.:112: Thân phận của người lính trận VNCH là như vậy, làm sao mà không buồn không hận và không than trách cho kiếp đời hẵm hiu héo úa ?:112: ![]() Không thể làm ǵ hơn, nên Bộ Chỉ Huy hành quân đă xin Khu chiến thuật nhờ không quân can thiệp. Màn đêm hững hờ buông rèm gói trọn vạn vật, chỉ c̣n nghe tiếng L19 và Khu trục cơ Skyraider vần vũ dội bom bắn phá mục tiêu. Xa xa về hường Sài G̣n, trời sáng hồng trong đêm tối, giờ này thiên hạ đang vui say chè chén nhảy nhót và hạnh phúc. Nên chắc không ai hoài công nghĩ tới, lúc đó tại một thôn xóm hẻo lánh nghèo nàn, có không biết bao nhiêu người, dân cũng như lính, địch lẫn ta đang lặn lội trong bom đan, chỉ mong được phép lạ để sống c̣n. Suốt đêm trừ tịch, máy bay liên tục dội bom, Ấp Cây Bài đắm ch́m trong biển lửa. Ngoài ŕa ấp Tiểu đoàn nằm chờ trời sáng ai cũng đói lạnh nên nhiều người mặc kệ lăn kềnh trên đất ngáy kḥ, bất kể cái chết kề cận. Tờ mờ mồng một Tết, quân vào Ấp trong nổi thê lương tận tuyệt. Khắp nơi chỉ là nổi chết từ người tới trâu ḅ heo chó. Giặc đă chém vè bằng các đường giao thông hào, bỏ lại nhiều tử thi lơa lồ bất động. Chiến tranh tàn nhẩn, oan nghiệt khiến suốt đời lính không quên được h́nh ảnh chết chóc [/i][/color][/size][/b]của những người dân lành vô tội, giữa nhang đẻn bánh mứt.. chờ đón xuân về. C̣n tiếp , |
4 -CHUYẾN TÀU BA MƯƠI TẾT : Chiều hăm chín tết năm 1978, trại cải tạo Huy Khiêm của tỉnh Thuận Hải rộn hẳn lên v́ ngày mai cho tới mồng hai Tết, đoàn tù khổ sai của VNCH tạm nghĩ lao tác, được đổi khẩu phần Tết với đường, thịt heo, cơm trắng không độn và một bao thuốc có cán. Nhưng quan trọng nhất vẫn là cái danh sách phóng thích tù nhân vào mỗi dịp Tết về, sẽ được cán bộ gọi trong buổi sinh hoạt hôm nay. Đúng 1 giờ trưa chiều ba mươi tết năm đó, trại có mười người được nhận giấy phóng thích về nguyên quán tŕnh diện. Quỹ trại không có tiền cho tù nhân mua giấy xe đ̣ xe lửa, nên ai lo mạng nấy bằng cách lội bộ , từ Huy Khiêm tới Ga Suối Kiết xa chừng 30 cây số. Tám giờ tối cả bọn tới nhà ga th́ đă lở chuyến tàu chợ, nên đành phải chờ chuyến tàu suốt Bắc-Nam, Nam Bắc vào lúc 11 giờ khuya cuối năm. Trong bọn chỉ có tôi về Phan Thiết, c̣n lại đều ở rất xa tận Sài G̣n, Nha Trang.. Chia ly rồi sắp chia ly nữa, anh em chỉ đành ngậm ngùi trao gởi, hứa hẹn. Trong khoảnh khắc năm củ sắp tàn, mọi nhà cài then đóng cửa đón mừng năm mới, th́ chúng tôi cũng đang chờ phút giây thay đổi của đất trời. Ga Suối Kiết nằm cheo leo trong rừng lá cạnh vách núi Ông cao ngất hùng vỹ, bao quanh vài chụp nếp nhà lá lụp xụp của các công nhân hỏa xa và dân làm gổ. Có lẽ hôm nay mọi người đă về quê ăn tết nên xóm nhỏ thật đ́u hiu không có một chút sinh khí, chứng tỏ nàng xuân chưa ghé chốn này. Cũng may Suối Kiết là một ga lớn trên đường xe lửa Nam-Bắc, nên tất cả các chuyến tàu chợ và suốt đều phải ngừng lại, dù khách có hay không. Đêm về núi rừng càng buốt cóng lạnh căm, bộ quần áo trận năm nào dù đă được đắp thêm chục mănh vá, vẫn không ngăn nổi cái sắt se xa xót, như từ một cơi mộ địa, theo cái lạnh xâm chiếm tâm hồn những bóng ma đang lạc lơng trong đêm xuân, không biết rồi sẽ về đâu, để kiếm chút hơi ấm của t́nh quê. Trong cái hiu hắt của đêm buồn, cũng đủ để mọi người nh́n rơ h́nh ảnh của sự cô đơn nơi ga lẽ, từ những thanh sắt han rĩ tróc sơn trước quầy bán vé, cho tới hàng ghế gổ mọt đầy vết bẩn.:112: Tất cả bỗng dưng được trùng phùng một cách ngẩu nhiên với những người tù không bản án , những quân, công ,cán cảnh của VNCH bại trận , vùa được phóng thích trong đêm tết quạnh quẽ, buồn rầu. ![]() Phải vui lên một chút để mừng năm mới, thay v́ mượn rượu phá thành sầu, cả bọn lại chụm đầu vào nhau rít chung vài bi thuốc lào ăn tết, trong khi bên ngoài gió núi lồng lộng thổi, tạt sương muối vào mặt mũi da thịt, khiến cho cơn lạnh đói càng thêm hành hạ những người tù từ địa ngục mới được thả về. H́nh như giao thừa sắp đến trong mông mênh cùng tận. Như những năm nao, tôi lại âm thầm lâm râm cầu nguyện cho mẹ già, em gái, cho ngươi yêu củ, bạn bè, đồng đội, đồng bào.. được may mắn an b́nh trong buổi hổn mang dâu bể. Hởi ơi giờ này không biết mẹ già em thơ, có c̣n như những ngày xuân dấu ái trước năm 1975, giao thừa đi lễ chùa, xin xăm hái lộc, nhà có vui xuân đón tết hay gia đ́nh cũng lại như tôi, tại sân ga nơi rừng núi thẳm tăm tối lạnh lẽo này, cô đơn, đói lạnh và nhục nhă trùng trùng. Kỷ niệm xưa từng mảng lại trôi bềnh bồng trên mắt, lén lút đẩn dắt đưa tôi về thuở hoa niên, khi những cánh hoa phượng đỏ ối nối hàng, dọc theo con đường Nguyễn Hoàng dẫn vào lớp học, đă bắt đầu rụng rơi lă tă giữa các trang lưu bút, trên từng rèm mắt ô môi, cũng là lúc bọn học tṛ nghĩ hè làm gă giang hồ lăng tử, trên những chuyến tàu hỏa chui Phan Thiết-Sài G̣n rồi Sài G̣n-Phan Thiết, đi hoài vẫn không thấy chán. ![]() Rồi những ngày dài chinh chiến, định mệnh lại đẩy đưa tôi về chốn cũ Long Khánh-B́nh Tuy-Phan Thiết. Tuy tàu hỏa đă bị gián đọan nhưng suốt đoạn đường sắt từ Mường Mán về Gia Ray, con đường ṃn Vơ Xu tới Suối Kiết, kể cả những suối rạch, bải đá ven sông La Ngà, đều là những lối lại qua quen thuộc , đă cùng tôi chắt chiu suốt đoan đường tuổi trẻ của người lính trận. Làm sao quên được những ngày dừng quân ở Văn Phong, Mường Mán ? ngày ngày ngồi ngâm nga tách cà phê đen ngon tuyệt nơi quán lẽ ven sông, ngó nh́n các chuyền tàu xuôi ngược. Giờ đây cảnh xưa vẫn nguyên vẹn, riêng tôi th́ ôm một tầng trời sầu thảm không đáy, lạc lơng trên quê hương hận thù với kiếp sống nào hơn loài cỏ cây. Rồi th́ tàu cũng đến, chúng tôi chia tay trong nước mắt, cuối cùng ai nấy hấp tấp lên tàu như kẻ trốn nợ trong đêm trừ tịch, giữa tiếng c̣i tàu lanh lănh thét vang, phá tan cảnh tịch mịch của rừng núi âm u, nghe sao quá ảo nảo lạnh lùng. Chuyến tàu suốt Sài G̣n-Phan Thiết đêm nay ế ẩm, nhiều toa hành khách vắng ngắt lạnh tanh, không như ngày thường chen chân không lọt. Có lẽ mai là mồng một tết nguyên đán, nên ai cũng muốn ở nhà để xum họp với gia đ́nh. Đất trời buồn mênh mông quá, thêm gió thổi vi vút từ hai b́a rừng thả hơi lạnh khắp nơi, nhưng tôi vẫn muốn ngồi ngoài hành lang để được nh́n lại quang cảnh cũ Trong các toa tàu, đèn đóm tối om, dăm ba hành khách nằm dài trên ghế như đă ngũ tụ lâu rồi. Mặc kệ, tàu vẫn chạy xiết trên đường sắt như con thú điên , với hai ánh đèn pha phá tan màn đêm tăm tối. Hởi ơi cuộc đời sao oan nghiệt quá, trong lúc nhà nhà đang đầm ấm chờ đón chúa xuân, th́ tôi trong một tối ba mươi tết, buồn rầu nơi toa xe lửa lạnh lẽo này, yên lặng nép ḿnh trong cô quạnh , để đón một mùa xuân vàng úa nữa, sắp rơi xuống bờ vai của cuộc đời. Trong giờ phút năm củ sắp tàn, con tàu cũng hối hả lướt qua từng ga vắng Sông Dinh, Sông Phan, Suối Vận, Mường Man rồi Phú Hội vừa đúng 12 giờ rưởi sáng . Thế là năm mới đă qua và tôi cũng đă lở dịp nghiêng ḿnh chào đón nàng xuân mới nơi quê hương ḿnh. Trên tàu ai nấy đều thức dậy, đang chuẩn bị hành lư xuống ga Phan Thiết. Tất cả đều xa lạ, hờ hững, buồn rầu, im lặng như bóng tối, không ai chúc nhau một lời ngắn ngủi dù là ngày tết. ![]() Bổng đâu đấy nơi một thôn xóm nào đó, dọc theo con đường sắt vang lên mấy tràng pháo chuột, bóng sáng lập ḷe như muốn đưổi theo con tàu, khiến cho hồn thêm buồn rầu thương tiếc. Nổi náo nức thầm kín vừa lóe lên, chợt tắt hẳn khi nghĩ đến thực tại năo nùng. Hỡi ôi mấy chục năm về trước, tôi là người lính trẻ xa nhà vẫn đam mê chạy đuổi theo những giọt mưa xuân giữa trời lửa loạn. Nay trong buổi xuân về, người lính già lội ngược thời gian t́m vết ngày thơ như c̣n giấu đâu đó, nơi ṿm trời đồng đội, và em, và những tết cuối cùng trong quân ngũ, để ngẩn ngơ bàng hoàng xúc động, như thể vừa bước chân lên con tàu về quê hương, của những tết ấm yên hạnh phúc đầu đời. ![]() Tết nay em có về Phan Thiết có ghé trường xưa, viếng mộ thầy đây nén hương ḷng người lính cũ cũng là lệ nhớ xót thương cay Có vào tửu quán vui cùng bạn chuốc một bầu riêng cúng tưởng người những lính cùng dân chung bất hạnh v́ đời mà đổ máu thây phơi Có xuống Cồn Chà ăn cá mực thăm giùm người bạn biển quê tôi thảm ơi một kiếp đời mưa gió vẫn áo mê tơi suốt một đời Có qua phố chợ khoe quần áo bớt một vài xu giúp kẻ nghèo người phế binh ḅ trên gạch lạnh tủi buồn cô quạnh nắng mưa treo Có đi ngắm cảnh t́m thơ vị đừng bỏ quên Cây Táo, Phú Long Dốc Căn, Kim Hải, Đoàn Mạnh Hoạch những địa danh xưa đẳm máu hồng Có vào lễ Phật trên chùa Cú hay ghé thăm Cha tại giáo đường t́m lại giùm tôi hương phấn cũ của thời tuổi học lắm thương vương Có gặp bạn bè c̣n sống tủi xin em chia bớt một phần vui xin em lau lệ đời phân cách để nguyện cho nhau bớt ngậm ngùi Có mua quà tặng khi về Mỹ xin nhớ cho tôi chút vị làng hơi đất , mùi rơm, t́nh biển mặn thương hoài mà vẫn cứ miên man Viết từ Xóm Cồn Ha Uy Di Chạp 2008 Hồ Đinh http://www.xaydunghouston.com/ThamLu...tThaPhuong.htm |
ĐỒN VẮNG CHIỀU XUÂN
PHÚT GIAO MÙA |
TẾT VỚI NGƯỜI LÍNH THỜI XƯA CŨ !
TẾT VỚI NGƯỜI LÍNH THỜI XƯA CŨ ! ![]() Có người nói tết là ngày quay lưng đi quá khứ và ngoảnh nh́n tới tương lai. Với người lính VNCH xưa cũ, những ngày cuối năm là dịp để nhớ về, để tưởng nhớ. Thời gian ở chiến trường, có lúc biền biệt để không thể nhớ được ngày tháng. Nhưng gần tết, khi nắng buổi chiều đă có màu vàng hoe, khi gió bấc đă xạc xào làm thức dậy những chuỗi kỷ niệm tưởng như yên ngủ. Bao giờ cũng là những hướng vọng. Như là những ngày yên b́nh sắp tới. Như ngày được về nhà hội ngộ với vợ con. Dù ở bất cứ nơi đâu, một tiền đồn heo hút hoang vắng, hay ở một đảo xa cô tịch sóng gió băo bùng, hay ở trong quân trường chỉ cách phố phường có hàng rào kẽm gai ban đêm nh́n ánh đèn thành phố, cái cảm khái cũng đều giống nhau, của một nỗi buồn của bất cứ một người nào có trái tim đều tự nhiên như thế. Nhân ngày đầu năm, tản mạn về những cái tết của thời chinh chiến mà những ngày tháng ấy không thể nào quên trong trí nhớ chúng ta. Có người đă đặt câu hỏi nhiều người thích chiến tranh nên hay thường nhắc đến với nhiều cảm khái ? Thời trước, mặc dù tôi là một người lính nhưng cũng không đến nỗi hiếu chiến nên chọn lựa giữa an b́nh và chém giết th́ tôi vẫn thích an b́nh cho đất nước hơn. Nhưng, vẫn phải đi trên con đường mà cả thế hệ chúng tôi phải đi và không có thể có quyết định nào khác. Khi nước biến th́ phải làm nhiệm vụ của ḿnh. ![]() Chiến tranh có lẽ là một đề tài lớn của văn chương nhân loại. Riêng với dân tộc Việt Nam, từ xưa đến nay, đă quen với chinh chiến khói lửa, chỉ riêng kư ức của những người lính cũng đủ làm chất liệu cho những pho tiểu thuyết lớn. Đọc từ văn học miền Bắc đến hai mươi năm văn học miền Nam, từ văn chương trong nước đến hải ngoại, rất nhiều chân dung người lính được phác họa với rất nhiều đặc tính, đặc thù. Viết về chiến tranh, mô tả chân dung người lính của QLVNCH và bộ đội Cộng sản trong những nền văn học, những nhà văn ở hai phía đă có nhiều khác biệt. Văn học miền Bắc và văn học trong nước sau 1975 là một nền văn học đầy tiếng súng. H́nh tượng người lính được tô vẽ với những nét anh hùng đôi khi gần với tưởng tượng và không có trong thực tế. Dù rằng, có khi chiến tranh đă hết, nhưng âm hưởng vẫn c̣n. Tới bây giờ vẫn c̣n những tiểu thuyết tô vẽ những mẫu người được gọi là chiến sĩ, chiến đấu ngay cả khi ḥa b́nh. Có một khuôn mẫu cho nhà văn miền Bắc khi mô tả về chân dung người lính Cộng sản theo đúng như những đề cương văn hóa đă ấn định. Chân dung người lính Cộng sản được vẽ ra ltoàn thiện toàn mỹ với đầy những nét hy sinh cang cường mưu trí và nhất là trung thành vô hạn với chế độ với lănh tụ. Cả đến khi gần với cái chết cũng không sợ hăi và dù trước những cám dỗ vật chất cũng không chuyển ḷng. Đó là chân dung của những con người không có trong thực tại. Những mô tả khác với ấn định ấy, dù có nét chân thực của tự nhiên con người cũng bị phê phán, cấm đoán. Những tiểu thuyết như: - “Cái Gốc“ của Nguyễn Thanh Long, - Truyện ngắn “Một đêm đợi tàu” của Đỗ Phú hay tùy bút - “ T́nh rừng” của Nguyễn Tuân, … đă bị kết tội - “ Xu hướng lấy cái tầm thường yếu đuối của ḿnh mà gán cho nhân vật theo kiểu lấy bụng ta suy ra bụng người” Hay những bài thơ : - “ Ṿng Trắng “ của Phạm Tiến Duật, như : - “ Tâm sự với Thúy Kiều“ của Lư Phương Liên, hay những bài thơ của Dư Thị Hoàn,... cũng bị phê phán, là dao động, ủy mị có những suy nghĩ tiêu cực đi ngược lại chính sách của Đảng. ![]() Trong khi đó, không có một mẫu mực tiền chế nào về chân dung của người lính quân đội VNCH. Trong hai mươi năm văn học miền Nam hay ở văn chương Việt Nam hải ngoại, chân dung người lính ấy được nh́n ngắm từ nhiều góc độ. Không có một khuôn khổ nào được ấn định cho những chân dung người lính ấy. Và không phải lúc nào cũng là những lời lẽ cổ vơ chiến tranh. Cái tâm tư không muốn tham dự cuộc chiến nhưng vẫn phải vào cuộc hay sự suy nghĩ của những người t́nh nguyện đi vào binh nghiệp, có khi tưởng như tương phản nhau nhưng lại là phản ánh trung thực [/b]của cả một thế hệ tuổi trẻ lớn lên trong thời kỳ chiến tranh. ![]() Trong khung cảnh của một đất nước chiến tranh, mùa xuân vẫn là một dịp để nhớ nhung, hay một dịp để nh́n vào tương lai sắp tới với những hy vọng. Ngày đầu năm ở quân trường, ngày tân xuân ở chiến trường, những nhà văn, nhà thơ mang áo lính đă sống trong không khí đặc biệt, trôn lẫn buồn vui, chán chường, hy vọng, thương đời và thương ḿnh. Trong những tác phẩm viết về chiến tranh ấy, nhân ngày đầu xuân, chúng ta thử đi vào những không gian riêng, thời gian riêng của những người lính. Mặc dù, chế độ Cộng sản đương thời muốn xóa nḥa đi h́nh ảnh nền văn học ấy nhưng xem ra ư định ấy đă thất bại. Chẳng có chế độ nào thành công trong việc phần thư khánh nho, cho dù là chế độ Tần Thủy Hoàng ngày xưa đến Cộng sản Việt Nam bây giờ… Phan Nhật Nam, người lính Nhảy Dù, một nhà văn mà bị Tô Hoài trong cái bỉ thử nhưng vẫn pha sự thán phục cho là : “ Người viết tác phẩm của ḿnh bằng máu nhưng là loại máu cặn bă của chế độ thực dân mới“. Chính thái độ phi văn nghệ khi chửi bới các nhà văn khác chính kiến như Doăn Quốc Sỹ, như Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, như Phan Nhât Nam,… đă làm cho tác giả của Trăng Thề, của O chuột bị người đọc ác cảm và hạ thấp đi nhiều giá trị của ḿnh. Trong “Dấu Binh lửa“ Phan Nhật Nam cũng đă trải qua nhiều cái Tết. Cũng có những cái tết hạnh phúc, những ngày ứng chiến ở thủ đô Sài G̣n. Nhưng, tiếp theo không phải là thiên đường như vậy. Chiến trường ngày đầu xuân ác liệt, và gian khổ : “… Đêm mùa khô trời đầy sao, sau khi có mấy muỗng cơm nóng với ngụm nước nhỏ tôi tỉnh người đốt điếu thuốc gối đầu vào nón sắt ghé tai vào máy truyền tin xem chừng các toán phục kích… bên phía hai tiểu đoàn bạn trận đánh mỗi lúc một ác liệt chưa bao giờ tôi thấy gunship đánh trận đêm nhiều đến như thế Quân rút ra đi như một lũ ma đói hai ngày hai đêm thiếu nước và mất ngủ mọi người phờ phạc trông thấy. Trung đôi tôi đáng lẽ dẫn đầu trở ra lại phải đi chót Tiểu Đoàn. Đại đội 73 đi đầu. Trung đội của Toàn vừa đi được hai mươi thước đạp một trái lựu đạn, hai chết hai bị thương... Mấy thằng lính của Trung đội tôi cười như mếu. May quá, ḿnh đi đầu là chết rồi ! Tôi cũng nhủ thầm ḿnh có số mạng… ![]() Người trước đi, tôi đi theo chẳng cần đội h́nh ư tứ ǵ nữa, hai ngày vừa qua có được bốn muỗng cơm, người tôi không c̣n một sức lực nào nữa... Tôi dặn lính. _ "Tụi mày cứ đi theo Trung đội trước mà đi, sát vào nhau đừng để lạc. Đầu gục xuống súng vác trên vai tôi thở không những bằng mũi mà cả bằng chiếc mồm há ra thật lớn, chiếc lưỡi căng phồng nhức nhối và đôi môi khô không c̣n chút cảm giác nữa. Tro rừng, đất bụi bám đầy mặt mũi bay đầy vào mồm, không c̣n tí nước bọt nào để nhổ ra, tôi đưa tay vào mồm chà trên lưỡi từng tảng tro đen. Quốc lộ 15 đây rồi, có thửa ruộng nhỏ bên đường tôi úp chiếc mặt vào gịng nước đục ngầu phủ một lớp bùn non… Uống! Uống! Như loài thú hoang trên sa mạc. Ngày hôm nay mới mồng tám Tết...” ![]() Mùa xuân với người lính quả không phải là một dịp để nghỉ ngơi. Nguyên Vũ, một sĩ quan đề lô pháo binh đă tả cảnh “Nghênh xuân chiến địa” : “ Tết Ất Tỵ trở về bất chợt và ngỡ ngàng. Buổi chiều ngày 28 tết tôi đă định nhảy dù về Sài G̣n. Nhưng sợ hành quân bất tử, chui vào chiếu bạc, cháy túi. … Thương nhớ đưa tôi vào quán rượu. Những ly rượu đế sủi bọt nồng cháy cuống phổi. Nhưng thấm lạnh tận trong hồn. Mắt tôi mở lớn nh́n ra khung trời khô lạnh - thứ khô lạnh của chiều cuối năm miền Bắc. Mà không thấy ǵ… Nửa đêm hôm đó 4 chiếc GMC đưa chúng tôi ngược đường từ Bạc Liêu về Nhu Gia. Nửa đường, đoàn xe ném chúng tôi xuống để nhào tới đột kích xóm Béc Hen. Băng ruộng băng kinh trong đêm tối giá lạnh. Ṃ mẫm giữa những lung dừa nước rậm rạp hàng giờ. Ba giờ sáng chúng tôi mới tới mục tiêu và âm thầm xiết chặt ṿng vây. Năm giờ, trời vừa rạng sáng dù sương mù c̣n dày đặc chúng tôi ào ạt tràn vào xóm. Chỉ bắt được hai tên du kích và liên lạc bậy bạ. Báo hại dân chúng xanh máu mặt. Và chắc họ rủa thầm chúng tôi không ít. Mới sáng sớm mồng một Tết đă có lính tráng xông nhà. Rủi hay may đây ? Thế nhưng thời buổi này người nông dân Việt Nam làm ǵ có một chút quyền lực nào dù nhiệm vụ họ rất nặng nề. Nhiệm vụ phải “đóng góp” cho MTGPMN, nhiệm vụ bị thủ tiêu bởi những viên Công an xă ấp hay du kích. Nhiệm vụ khóc cười sao cho hay và ṛn ră nếu không may có một trận đánh khai diễn ngay trong xóm. Dù sao ngoài mặt họ cũng niềm nở pha trà mang mứt mời chúng tôi. Chủ và khách bất đắc dĩ cười nói chúc mứng năm mới tài lộc đắc phúc. Gần trăm mạng Thám Báo chúng tôi chia ra chúc Tết mọi gia đ́nh của cái xóm nhỏ nghèo nàn này… Khi những vệt nắng đầu năm vàng ối đă kết hoa trên ṿm lá của những thân sao, trâm bầu và dừa nước chúng tôi từ giă xóm Béc Hen, hướng về phía Tây, để lại sau lưng nắng ấm mùa xuân và những người nông dân ”thân lươn bao quản lấm đầu” ![]() Phan Lạc Tiếp, một nhà văn quân đội nhưng chất đôn hậu lại nhiều hơn chất lính trong văn chương. Trong bút kư Bờ Sông Lá Mục, ông ghi chép lại hành tŕnh của một sĩ quan Hải quân lênh đênh trên sóng nước. “Giao Thừa Trên Đảo” là những ḍng ghi lại sinh hoạt của những người lính biển cuối năm ở một hải đảo cô tịch hầu như biệt lập với sinh hoạt bên ngoài. Giao thừa, tập họp trong hàng quân, mỗi người mỗi nặng nề tâm sự. “… Tiếng c̣i tập họp nổi lên. Tôi vẫn đứng yên. Sau tôi những bước chân vội vă. Những tiếng động quen thuộc lúc sắp vào đêm. Gió h́nh như vừa nổi lên và lạnh hơn. Tôi quay vào. Viên trung sĩ dơng dạc hô “nghiêm”. Tôi giơ tay chào và ra đứng trước hàng quân. Tôi ngửa mặt nh́n lên. Những tàn cây che phủ. Bước mấy bước chậm rồi tôi ngừng lại. - Hôm nay ba mươi tết phải không các anh? Hàng quân như xao động. Tôi tiếp: - “ Bây giờ là bảy giờ tối ba mươi tết “. Tôi vừa bước những bước ngắn và nói. : - ” Tối ba mươi tết. Chúng ta ở ngoài ḥn đảo này. Quanh chúng ta chỉ có rừng cây, ghềnh đá và biển… ... Tôi trở về lều. Cửa sổ mở nh́n ra ngoài khơi. Biển vẫn phẳng lặng không một ánh đèn. Tôi thấy xót xa trong ḷng. Nếu tàu không tới th́ buồn biết mấy. Tiếng hát từ chiếc loa ngoài kia đều đều vọng tới. Giọng hát Thái Thanh nức nở thiết tha. Tôi khêu to ngọn đèn lên. Chiếc kiếm gác trên vách lá. Di vật của người đội trưởng trước tôi để lại, hồi ông ta nổi điên được đưa về Sài G̣n điều trị. Vội vă quên nên không mang theo. Chiếc kiếm với đầy đủ ngù quàng nơi đốc kiếm. Tôi lấy xuống, rút ra. Lưỡi đă có vài vết han rỉ. Tôi tra vào bao và dựa xuống sau đầu ghế vải thầm hỏi không biết hồi này bịnh t́nh đă khá chưa. Người con trai thời loạn chẳng lẽ chóng hoen rỉ như lưỡi kiếm này, như chủ nó sao? Tôi cũng không biết tôi sẽ c̣n phải trấn giữ ḥn đảo này trong bao lâu nữa. Rồi ra tôi sẽ phát điên không? Ai sẽ tới thay tôi và sau đó ai sẽ tới nữa. Những buổi chiều bóng núi đổ dài ra ngoài khơi. Khí núi xông lên lạnh và buồn. Những anh tuần viên xúm nhau ngồi trên khúc cây khô ca vọng cổ. Rồi đêm xuống dơi mắt ra khơi t́m những bóng đèn câu lạc loài từ đất mẹ… Tôi rùng ḿnh thật mạnh như muốn xua đuổi những h́nh ảnh u buồn ngày cũ. Tôi đứng lên tính đi rửa mặt cho tỉnh táo để c̣n đi thăm mấy gia đ́nh trong trại. Nhưng vừa bước ra sân đă thấy lố nhố một đám đông quần áo chỉnh tề. Tôi hiểu ngay ư định của họ nên vội vàng sốc gọn lại quần áo. Dẫn đầu là ông Tư-thuốc-mê. Không hiểu ông đă moi được ở đâu một cái áo vét-tông nhầu nát và sực mùi ẩm mốc. Mọi người khác cũng đều mặc thường phục. Ông Tư đằng hắng rồi lên tiếng : “ Năm mới chúng tôi tới mừng tuổi đội trưởng và cầu chúc đội trưởng thăng quan tiến chức.“ Tôi chắp tay đáp lễ và chúc mọi người sang năm mới ai nấy đều được vạn sự như ư. Tôi c̣n đang ngập ngừng lựa lời nói tiếp th́ một người bật nói “Và sớm được về đất” Mọi người đều cười vang. Khi mọi người kéo nhau vào, kẻ ngồi người đứng quanh chiếc bàn nhỏ th́ tôi chợt nhận ra một ánh sáng long lanh qua kẽ lá ngoài cửa sổ mọi người cùng nh́n theo tôi và bật reo mừng ồn ào. Hai chấm xanh đỏ. Đúng là đèn hải hành của con tàu sắp tới. Chúng tôi cùng chạy ùa ra ngoài băi cát. Triền cát mát lạnh dưới chân, cái mát lạnh cảm thấy được qua đế giầy da và làn bít tất đen dầy. Con tàu mỗi lúc lại tiến lại gần. Mọi người bàn tán xôn xao. Phía sau chúng tôi ngọn lửa vẫn âm ỉ cháy. Tôi quay lại nói lớn: Đốt lửa lên, cao nữa lên, anh em!” Trần Hoài Thư, cũng đón giao thừa. Nhưng, là đêm giao thừa nằm giữ đường làm an ninh cho các cuộc vui thâu đêm suốt sáng của các quan to súng ngắn : “Dẫn một đàn con chiều xuống núi giao thừa không ai nhắc mà đau giao thừa hai tiếng đâm tâm năo trừ tịch: poncho gạch lót đầu một đêm sao lại buồn như mếu muốn nổ tan tành cả cơi đêm giao thừa giao thừa ta xuống núi làm hiệp sĩ mù giữa cơi u minh giao thừa ai đó mời ta rượu một nhấp mà hồn tê tái ư anh bạn nghe ǵ không, tiếng nhạc người ta đang nhảy đầm dạ vũ mừng xuân Giao thừa mừng tuổi con heo bịnh Xin của nhà dân làm cỗ xuân Trung đội lập bàn thờ giữa mả Ta khấn âm hồn Bảo bọc đàn con…” Một bài thơ khác đón xuân say sưa của một người lính thường không uống rượu. “Ông già chống gậy, cũng xong một thau xá xị đủ nồng thịt da mày tao lính trận xa nhà cuối năm th́ cũng ba hoa tiệc bầy Uống cho núi lở, ông thầy Đầu gà sao cứ chỉ ngay ly buồn Thinh không giá rét từng cơn Bâng khuâng nghe chuyện mất c̣n vu vơ Phá mồi đừng có giả ngơ Vài lon thịt có bao giờ đủ say Uống cho trời đất lăn quay Mốt mai vào núi men cay đâu cùng Cầm súng bắn vào không trung Lửa nào bốc măi tận cùng sầu ta Bạn tao vừa chết đêm qua Hai mươi mốt tuổi chưa già đă đi Uống cho đă nỗi thầm th́ cuộc chơi bom đạn c̣n ǵ thế thân Vết thương máu giọt mấy lần Hay đầu dao nhọn phân vân tháng ngày Rượu c̣n, sao quắc, ông thầy Dỡn mày, ly cạn rót đầy cho tao Lính trận giữa chốn binh đao Cuối năm giấc bướm trăng sao chẳng về…” Thau xá xi pha lộn xộn những loại rượu nội hóa rẻ tiền quen thuộc với lính. Ông già chống gậy như Vĩnh Tồn Tâm, Vĩnh Sanh Ḥa,... Đồ mồi đơn sơ và tṛ chơi quay đầu gà để chỉ định người cạn chén. Những người lính xúm nhau mượn men cay để đón xuân, để quên đi những bèo bọt cuộc đời. Nhưng quên đi sao được khi h́nh ảnh của những người đă hy sinh vẫn cứ hiện về, nhức nhối. Nguyễn Mạnh Trinh |
ANH CHO EM MÙA XUÂN
ANH CHO EM MÙA XUÂN |
CHÚC MÙNG XUÂN TÂN SỬU
![]() “ Từ độ ra đi xa Tổ quốc, Thấy đào mai nở nhớ thương quê, Xuân về lòng nguyện cầu Quê Mẹ, Dân chủ Tự do sớm trở về ... ” - Phạm Thọ - |
NGÀY XUÂN THĂM NHAU
NGÀY XUÂN THĂM NHAU |
CỜ VÀNG RỰC RỠ TRÊN NÚI ĐỒI XUÂN
CỜ VÀNG RỰC RỠ TRÊN NÚI ĐỒI XUÂN Tiểu Đoàn 2 Sói Thần Đón Tết nơi Tiền Đồn Sư Đ̣an 1 Bộ Binh VNCH - Vùng 1 Chiến Thuật. ![]() Sau Tết Mậu Thân năm 1968, các phe lâm chiến tại Việt Nam rủ nhau tới Paris, thủ đô của nước Cộng ḥa Pháp quốc để bàn chuyện ngưng chiến. Một cuộc chiến tương tàn do Cộng sản Bắc Việt chủ xướng từ nhiều năm nay, ngay khi Hiệp định đ́nh chiến Genève tháng 7 năm 1954 được kư kết chưa ráo mực. Và cuộc chiến trở nên qui mô hơn kể từ khi cái gọi là “ Mặt trận Dân tộc Giăi phóng miền Nam”, con đẻ của Cộng sản Bắc Việt ra đời năm 1960. Các phe đến phó hội đều mang một chủ đích riêng, khó có thể dung hợp, nếu đối phương không chịu nhượng bước. Nội chiếc bàn để ngồi họp mà cũng bàn thảo ṛng ră mấy năm trời ! Từ bàn tṛn, bàn vuông, đến bàn bầu dục. Toàn bàn những chuyện tào lao, cố kéo dài th́ giờ để chờ một chiến thắng trên chiến trường làm lá bài áp đảo đối phương. Nhưng rồi cuối cùng một văn kiện ngưng bắn cũng đă được kư kết. Toàn dân, toàn quân đă thở phào nhẹ nhỏm. Những tưởng phen này người dân Việt có thể sống trong thái b́nh, dù có bị thiệt tḥi đôi chút. Nhưng bất hạnh thay, dù ta có thiện chí, dù người "bạn đồng minh" Hoa Kỳ của chúng ta có "thiện chí", nhưng thằng cộng sản là kẻ gian manh tráo trở, nên Hiệp định ngưng bắn Paris chỉ là một tṛ hề lố bịch , và đưa dần đến mất nước ! “Đừng nghe những ǵ cộng sản nói, Hăy nh́n những ǵ cộng sản làm” Đầu xuân năm 1973 , để đối phó với một cuộc ngưng bắn bất lợi mà chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa buộc phải kư kết do áp lực của người bạn lớn đồng minh Hoa Kỳ, Tiểu đoàn 2/43 của Đại úy Nguyễn Hữu Chế và Chi đoàn Thiết kỵ M113 của Đại úy Đào được điều về giữ Hậu cứ Sư đoàn tại Xuân Lộc, tỉnh Long Khánh. Đây là lần đầu tiên trong nhiều năm, những người lính mang khăn quàng màu tím có dịp về phố thị. Xuân Lộc tuy chỉ là một thị xă đất đỏ nhỏ bé nằm giữa những cánh rừng cao su bạt ngàn, nhưng dù sao cũng là một phố thị có đèn xanh đèn đỏ, có phố xá, có người qua lại với áo quần đẹp đẻ, có những người em gái xuân th́, mà nói như một thi sĩ trong nhóm Nhân Văn Giai phẩm: “ Tôi thấy những người con gái đến tuổi dậy th́ trông cô nào cũng đáng yêu ” Những người lính quanh năm suốt tháng làm bạn với gió núi mưa nguồn, màn trời chiếu đất, hay nói một cách thực tế, nằm vơng nghe muổi đốt, bây giờ có dịp bát phố, ghé vào một quán cà phê để “bên ly cô ca đó, nghe thèm thuốc pall mall” bổng thấy đời sao đẹp lạ lùng! Trước ngày ngưng bắn có hiệu lực, Tiểu đoàn nhận lệnh không được mở những cuộc hành quân , phục kích; chỉ được đặt tiền đồn, tuần tiểu và canh gác bảo vệ căn cứ. Buổi sáng ngày ngưng bắn, Đại úy Chế thức dậy sớm, v́ đêm trước là một đêm ngủ ngon, không bị đánh thức bởi những tiếng súng hay báo cáo của những toán đi phục kích bên ngoài phá giấc ngủ. Một đêm trôi qua thật yên tĩnh. Để đón chào giờ phút lịch sữ, giờ ngưng bắn có hiệu lực, vị Đại úy Tiểu đoàn trưởng cho pha một b́nh trà nóng, một hộp mức bánh dọn ra trên chiếc bàn đóng bằng gỗ thùng đạn pháo. Chiếc radio hiệu sony 4 băng, là phần thưởng do Quân đoàn tặng, do chính Chuẩn tướng Lê Văn Hưng trao tại sân cờ Bộ Tư Lệnh QĐ, sau những chiến thắng vang rền của Tiểu đoàn tại mặt trận An Lộc, B́nh Long hồi mùa hè đỏ lữa, đang phát ra những khúc nhạc hùng. Ông cho mời tất cả cán bộ từ cấp Tiểu đội trưởng và sĩ quan trong Tiểu đoàn về uống trà, ăn bánh thưởng xuân, đồng thời đón nghe Thông điệp của TT Nguyễn Văn Thiệu. Đúng 7 giờ, khi tiếng pháo và tiếng chiêng trống vừa dứt, lời của TT vừa cất lên chưa hết câu th́ súng nổ khắp nơi, đạn pháo của VC từ các khu rừng kế cận nă vào thị xă như mưa, khói súng mịt mù. Tiếng điện thoại reo vang. Đại úy Chế nhận lệnh cho đơn vị sẵn sàng, c̣n ông th́ lên Trung Tâm Hành quân. Khi chiếc xe jeep đưa ông đi ra đến cổng doanh trại, một trái đạn pháo nổ ngay đầu xe. Nhưng may mắn thay, tất cả đều vô sự. Tại TTHQ/SĐ, ông đă gặp Đại úy Đào, vị Chi đoàn trưởng Thiết kỵ. Hai đơn vị nhận lệnh đi giải tỏa ấp Bảo Vinh, một Ấp nằm sát ngay ṿng đai của Thị xă vừa bị VC tiến chiếm. Thật ra chúng chỉ là những tên VC nằm vùng, phối hợp cùng đám du kích địa phương, nên sau khi bị bao vây chia cắt, chúng đă t́m cách tẩu thoát vào rừng. Nhưng trước khi bỏ chạy, chúng đă làm một hành động tàn nhẫn là đốt nhà dân, tạo màng khói cho dễ lẫn tránh. Giải ṭa ấp Bảo Vinh vừa xong th́ Tiểu đoàn lên xe ra hướng ngả ba Ông Đồn để giải tỏa tiếp các ấp dọc theo QL1, cũng do đám địa phương lợi dụng lúc tranh tối tranh sáng tấn công. Với danh tiếng của Tiểu đoàn và đoàn xe thiết giáp hùng dũng, quân đi đến đâu là yên đến đó. Trước khi mặt trời xuống núi, hai đơn vị lại đèo nhau trở về Hậu cứ. Lối 1 giờ sáng, Chế và Đào lại bị đánh thức cho đơn vị chuẩn bị lên đường. [b][size=3][color=black][i] Hai đơn vị trưởng đi gặp Đại tá Mạch Văn Trường, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Long Khánh. Vừa bước vào pḥng khách, họ đă thấy người hùng An Lộc đang ngồi đợi : - Lợi dụng lúc ngưng bắn, một đơn vị cấp tiểu đoàn tăng cường của Trung đoàn 33 Quyết Thắng Long Khánh đă tiến chiếm ngả ba Dầu Giây. Đại đội Địa Phương Quân an ninh khu vực bị dồn vào một đầu xă. Chúng có súng pḥng không và súng đại bác không giật. Toàn khu vực ngả ba đă bị chiếm cứ. Ông vừa nói vừa di động ngón tay trên tấm bản đồ trăi rộng trước mặt. - Hai em ráng giúp qua, ông nói tiếp, lệnh trên bảo chúng ta phải khai thông trục lộ trước 12 giờ trưa! Hai vị Đại úy nh́n nhau, chỉ biết tuân lệnh. “Muôn sự tại Nhân, thành sự tại Thiên!” Trước khi đứng lên từ biệt vị Đại tá Tỉnh trưởng, họ c̣n được biếu mỗi người một chai rượu martel để khao quân. Chi Khu Định Quán, Tỉnh Long Khánh 1966 ![]() Ngă ba Dầu Giây, đoạn bắt đầu của QL20, đường đi Đà Lạt, với QL1. Đây là một thị trấn nhỏ nhưng sầm uất, là nơi dừng chân của các chuyến xe đ̣, xe hàng từ miền Trung, và từ Đà Lạt đổ xuống. Chung quanh là rừng cao su bao bọc. Lợi dụng lúc ngưng bắn, VC cộng đă tiến chiếm và đóng chốt ở đây trên một tuyến dài cả cây số. VC trà trộn trong nhà dân. Các ổ súng cộng đồng th́ được bố trí trên các cao điểm. Tương quan lực lượng th́ gần như ngang nhau. Địch thủ sẵn trong những hầm hố kiên cố. Ta có lợi thế là quân sĩ can trường, đoàn xe thiết giáp hùng hậu. Kể như một chọi một. Sau khi quan sát trận địa, và mở những cuộc đánh thăm ḍ. Đại úy Tiểu đoàn trưởng cho mở cuộc tấn công trực diện với đội h́nh hàng ngang. Nhưng cuộc tấn công lần thứ nhất thất bại. Một chiếc M113 bị bắn cháy, cả đoàn xe de lui. Một đại đội vượt được qua đường, bị kẹt ở tấm biển quảng cáo ḿ ăn liền. Lên không được mà rút lui cũng không xong. Đành phải nằm chịu trận, hứng mọi loại đạn pháo của địch quân. Nhưng thua keo này th́ bày keo khác. Đại úy Chế thề quyết thanh toán mục tiêu trước 12 giờ. Ông cho mời vị Chi đoàn trưởng, các Đại đội trưởng, và Sĩ quan tiền sát viên gặp mặt. Một cuộc họp hành quân bỏ túi diễn ra gấp rút. Ông ban lệnh : - Tất cả thiết giáp bố trí theo đội h́nh hàng ngang, bộ binh xen kẻ. Pháo binh tác xạ tập trung vào các ổ súng cộng đồng của địch. Khi có lệnh tiến quân, pháo chuyển xạ xa dần. Nếu có thương vong hay xe nào bị bắn cháy, cứ để đó, sẽ có Đại đội Chỉ huy và Yểm trợ lo. Tất cả cứ tiến, càng nhanh càng tốt. Nếu ai bất tuân, tôi sẽ truy tố ra trước ṭa án quân sự. Lúc đó đă gần 11 giờ. Đúng 11 giờ, ông cho lệnh tấn công. Các chiến sĩ khăn quàng tím cùng đoàn thiết giáp M113 hơn 20 chiếc hùng dũng tiến lên như vũ băo. Súng nổ rền vang, khói lữa mịt mùng. Vài chiếc xe bị bắn cháy, vài binh sĩ bị ngă gục. Nhưng đoàn quân vẫn tiến mà không hề chùn bước. Chỉ trong chớp mắt, đơn vị tấn công đă làm chủ trận địa. Địch quân bị bất ngờ trước lối đánh táo bạo của đối phương - giống như những con thiêu thân lao vào ngọn đèn - chúng tốc hầm bỏ chạy về hướng Tây – Bắc, xuyên qua ấp Nguyễn Thái Học, trốn vào rừng sâu. Cộng quân chỉ kịp mang theo những khẩu súng cá nhân, các ổ súng cộng đồng bị bỏ lại, gần như nguyên vẹn. Tin tức sơ khởi cho biết, quân ta tịch thu 1 khẩu thượng liên 12 ly 7, 1 súng đại bác không giật 107 ly, 1 súng cối 82 ly, và nhiều tù binh địch bị bắt sống, trong đó có tên B trưởng, tức Trung đội trưởng. Đúng 12 giờ, Đại úy Chế đứng ngay ngả ba đường cùng người lính mang máy truyền tin, bên dưới tấm biển quảng cáo ḿ ăn liền, báo cáo : - Tŕnh Hằng Minh, con đường đă được khai thông. Chính Đại úy Chế lúc đó trở thành người cảnh sát chỉ đường, điều khiển cho xe cộ lưu thông. Những ổ bánh ḿ, những hộp mức bánh, những tờ báo Xuân tới tấp liệng xuống đường, với những lời hoan hô, lời cám ơn người lính cộng ḥa cùng những nụ cười tươi, những nụ hôn gió của các cô gái xuân. Xe từ Đà Lạt th́ liệng trái cây, trà và rượu. Tất cả là cử chỉ tri ân, ḷng biết ơn của người hậu phương gửi cho lính trận. T́nh quân dân như cá với nước. Ôi ! Không c̣n ǵ cảm động và đẹp đẻ hơn. Buổi chiều, Tiểu đoàn 2/43 cùng Chi đoàn Thiết kỵ của Đại úy Đào lui về ấp Trần Hưng Đạo nghỉ quân. Nhưng thời chiến, người lính chiến không có th́ giờ để nghỉ ngơi . ! Sáng sớm ngày hôm sau, Tiểu đoàn đă lên xe thiết giáp trực chỉ quận Định Quán trên QL20. Sau khi thất bại trong mưu toan cắt đứt QL1 và QL20, cộng quân chuyển qua cắt đứt QL20 tại Phương Lâm, giáp ranh với Madagui của quận Bảo Lộc. Địa thế tại Phương Lâm rất thuận lợi cho việc phục kích và đóng chốt. Hai bên đường là đồi núi chập chùng, sâu bên trong là rừng rậm. VC đă bố trí một khẩu thượng liên 12ly7 trên một mỏm núi cao có thể khống chế được một đoạn đường. Những khẩu súng cối 61 ly và 82 ly được dấu đàng sau những ngọn đồi. Lực lượng địch tham chiến không rơ là bao nhiêu, nhưng ít nhất cũng là cấp Tiểu đoàn tăng cường. Khi Tiểu đoàn 2/43 và Chi đoàn Thiết kỵ đến, một đoạn đường đă bị cộng quân chiếm giữ. Lưu thông đă bị gián đoạn. Nhưng lần này công việc khai thông trục lộ không phải là một việc làm dễ dàng ! Cuộc ngưng bắn lần này là một cuộc ngưng bắn da beo. Theo tinh thần bản hiệp định, trước giờ ngưng bắn có hiệu lực, quân của phe bên nào ở đâu là vùng đất thuộc quyền kiểm soát của phe đó. Do đó Việt cộng đă từ rừng sâu, gấp rút tiến quân ngay trong giờ phút ngưng bắn để nới rông phạm vi ảnh hưởng của chúng. Đối phó với hành động gian xảo của địch, người lính Việt Nam Cộng Ḥa được lệnh mang theo nhiều Cờ Vàng ba sọc đỏ bên ḿnh để khi tiến đến đâu th́ cắm cờ đến đó. Chính những lá Cờ Vàng ba sọc đỏ này đă làm rực rỡ núi đồi mùa Xuân, và cũng đă tiết kiệm được nhiều xương máu của quân sĩ. ![]() Cây cầu ngắn nối liền với đoạn đường đang bị VC đóng chốt bị khống chế bằng một khẩu thượng liên 12 ly 7, nhiều khẩu B40, B41. Đă hơn một ngày đoàn quân giải tỏa bị dậm chân tại chỗ, không tiến lên được chút nào, nhưng nhiều quân sĩ cũng đă bị hy sinh tại cây cầu.:112: Đại úy Chế quyết định phải khống chế khẩu thượng liên trước khi cho quân vượt qua cây cầu để nhổ chốt. Đại đội 1 của Trung úy Nguyễn Trung Chánh được lệnh tiến đánh mỏm núi, nơi cộng quân đặt khẩu thượng liên. Ông chỉ thị : - Không cần quân của anh đến được mỏm núi, v́ như vậy rất gay go và nguy hiểm. Nhưng tôi cần quân của anh tiến đến đâu th́ cắm cờ đến đó. Cắm càng nhiều càng tốt. Và cứ nhứ nhứ cho chúng sợ mà bỏ đi. Trong lúc đó, các đại đội khác cũng răi quân ra khắp núi đồi làm công việc tương tự. Chỉ trong vài tiếng đồng hồ, khắp núi đồi vùng Phương Lâm Cờ Vàng nở rộ như Mai Vàng khoe sắc trước mùa xuân tới. Những lá cờ vàng nở ra mỗi lúc một nhiều, như nước thủy triều dâng. Cộng quân thấy khí thế của đối phương mỗi lúc một dâng cao, chúng bắt đầu nao núng. Cánh quân Đại đội 1 dù không đến được mỏm núi, nhưng tiếng súng từ khẩu thượng liên đă ngưng bặt. Khi biết chắc khẩu thượng liên đă bị khóa họng, đoàn quân bắt đầu tiến. Cây cầu bây giờ không c̣n là trở ngại đáng ghét, mà đă giúp đoàn quân tiến nhanh thanh toán mục tiêu. Quân tiến đến đâu, Cờ vàng theo đến đó, màu vàng loan đến tận biên giới Madagui của quận Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng. Khắp nơi là cả một rừng Cờ Vàng, trông như một rừng mai vàng nở rộ trong gió sớm mùa Xuân, đáng lẽ là một mùa Xuân thanh b́nh của đất nước, nhưng lại là một mùa Xuân của chiến cuộc tràn lan, cho đến một ngày th́ mùa Xuân không c̣n nữa, thay vào đó là một mùa Đông băng giá đang bao phủ khắp trời Nam ! Bảo Định https://hon-viet.co.uk/ |
T́nh Đồng Đội, Nghĩa Đồng Môn.
1 Attachment(s)
Tác giả tên thật là Tô Văn Cấp. Cựu học sinh Pétrus Kư. Cựu Thiếu Tá TQLC/VNCH. Tốt nghiệp khoá 19 Vơ Bị Đà Lạt. Hiện ở Nam Cali.
tdp Sau nghi thức phủ Quốc Kỳ cho Trần Tú, một đồng đội TQLC, tại nhà quàn Peek Family trên đường Bolsa (Little Saigon CA) anh em chúng tôi ra ngoài sân để “nhớ nhà châm điếu thuốc”, đồng thời nghe anh hội trưởng TQLC Nam CA căn dặn ngày giờ cuốn cờ và tiễn chân đồng đội đến nơi an nghĩ cuối cùng. Khi tôi đang nói chuyện với anh em th́ có một vị khách (cũng đến viếng người quá cố) tiến tới chào tôi và hỏi nhỏ: - Xin lỗi ông, tôi thấy trên nắp túi áo quân phục TQLC của ông mang tên TO CAP, vậy có phải ông là Tô Văn Cấp không? - Vâng...tôi là Tô Văn Cấp. Vị khách nắm tay tôi lắc lắc, kéo tôi ra khỏi đám đông, mừng rỡ nói: - Ê “B.K Cá Rô Cây*”, tao nè, Đỗ Minh Đức, tự “Đức Cống” ở Ba-Lắc-Kư 1955-1962 nè, mày có nhớ không? Tôi sững sờ nh́n vị khách lạ, nhưng những biệt danh “B.K Cá Rô Cây”, “Đức Cống”, “Ba-Lắc-Kư” (L.Petrus Ký) th́ quá quen thuộc, chỉ có trong đám “quỷ ma học tṛ” chúng tôi mới hiểu mà thôi. Tôi không bao giờ quên chuyện đau khổ ấy, dù đă hơn 60 năm rồi. Ngày xưa ấy, tôi là chú bé con “Bắc Kỳ Di Cư 54” duy nhất trong lớp Đệ Thất B1 niên khóa 1954-1955 trường trung học Pétrus Trương Vĩnh Kư, (chúng tôi gọi là “Ba-Lắc-Kư”), tôi bị đám học tṛ “Nam Kỳ giá sống” bắt nạt gọi tôi là “Bắc Kỳ ăn cá rô cây”, trong đó có tên Đỗ Minh Đức, nó là tên ngỗ nghịch nhất và tự nhận ḿnh là “Đức Cống” (nói lái là đống…). Nhất định là hắn rồi, tôi xiết chặt tay Đức-người khách lạ, và bóp cho thật đau để trả cái hận xưa. Đă hơn nửa thế kỷ qua rồi, nay bất ngờ đồng môn (cùng trường, cùng lớp) gặp nhau, nhận ra nhau th́ bao chuyện nghịch ngợm của tuổi học tṛ hiện ra khiến những lăo già như trẻ lại “mày tao” và ngậm ngùi nhớ các bạn cùng lớp đă hy sinh cho Tổ Quốc Việt Nam, nhắc và nhớ đến quư danh các thầy cô, Thầy Phạm Văn Ba, Thái Chí, Tạ Kư, Thượng Thủ, Hồng Đảnh, Trọng Phỏng, Cô Dung, Cô Sâm, Cô Ngà, Cô Hồng, Cô Thiên Hương đă từng dạy dỗ đám “nhất quỷ, nh́ ma, thứ ba học tṛ sao cho ra cái giống người”. Tôi hỏi Đức: - Mày* là “Đức Cống” thật sao? Lớp ḿnh có hơn phân nửa đi Khóa 19 Võ Bị và đã tử trận nhiều rồi, như các Nhẩy Dù Nguyễn Đức Cần, Phạm Thượng Chí, Phạm Khánh Châm, Bộ Binh Lê Đ́nh Điển, Ngô Văn Nô, TQLC Vơ Thành Kháng, Nguyễn Văn Hùng, BĐQ Nguyễn Thái Quan v.v.. tao* nghe nói mày* cũng chết cháy theo trực thăng rồi mà. Vậy từ ngày đó đến nay mày* biến đâu mất, lưu lạc phương nào, sao nay lại xuất hiện đến đây để viếng anh TQLC này? - Tao* tu ở Houston TX lâu rồi, nay bỗng dưng muốn ngao du phương Nam một chuyến cho biết sự t́n. Tao qua CA được hơn tuần, bữa nay đi ngang đây, thấy có đám tang, dường như thần lực nào đẩy tao* vào thắp nhang cho người quá cố này, không ngờ lại gặp mày*, mừng quá... (*Xin lỗi quư độc giả, mấy lăo già mà cứ xưng “mày tao” thì nghe thật chướng tai, nhưng đó là những tiếng xưng hô quá thân t́nh với nhau để được sống lại thời trẻ. Để quư đọc giả khỏi ngứa tai, những đại danh từ “mày tao” sẽ được thay thế bằng “tôi” trong các đoạn viết dưới đây) *** Đức kể tiếp: - Vô t́nh đi ngang Peek Family, thấy có đám tang và nhiều anh em TQLC, h́nh như có một thần lực nào đó đẩy tôi vào xin thắp một nén nhang cho người quá cố để nhớ ơn những anh em TQLC đă có lần cứu mạng tôi khi trực thăng tôi bị bắn rơi năm 10/1972 ở Quảng Trị... Nghe Đức kể vậy tự nhiên tôi rùng ḿnh, khi c̣n sống, Trần Tú, TQLC mà chúng tôi vừa làm lễ phủ cờ hôm nay, thường hănh diện kể lại cho chúng tôi nghe về chiến công của anh đă cứu sống một phi công trực thăng bị VC bắn rơi. Trần nói đúng, Trần và tiểu đội của anh gồm 6 TQLC làm tiền đồn đă cứu mạng một pilot trực thăng bị VC bắn rơi bên kia bờ sông Thạch Hăn vào tháng 10/72. Có thể đây là định mệnh đă đưa đẩy Đức đi ngao du đến Nam CA để gặp và tiễn chân ân nhân là Trần Tú lần cuối cùng chăng?. T́nh đồng đội ngoài chiến trường giữa Không Quân và TQLC cứu nhau khi sống và khi chết lại vô t́nh đưa đẩy tiễn nhau quả là một chuyện không b́nh thường. Tôi hỏi Đức kể về vụ rớt trực thăng và được cứu sống như thế nào xem có giống như chuyện Trần Tú thường nhắc không, Đức miên man đi vào dĩ văng: ***. Hồi Kư Của Pilot Đỗ Minh Đức: - Ngày 7/10/1972, Phi Đoàn 233 Thiên Ưng, Không Đoàn 51 Chiến Thuật, biệt phái 6 chiếc trực thăng cho Sư Đoàn TQLC, đóng tại quận Hương Điền, Huế, với nhiệm vụ yểm trợ hỏa lực tác chiến, tiếp tế và tản thương. Khoảng 9 giờ ngày 7/10/1972, tôi được lịnh từ Trung Tâm Hành Quân Sư Đoàn TQLC đi bốc giúp một thiếu phụ sinh con khó khăn ở phía Bắc quận Hương Điền, để đưa bà mẹ này về bịnh viện Nguyễn Tri Phương, Huế. Sau phi vụ nhân đạo đó khoảng nửa giờ, tôi nhận được một phi lịnh đặc biệt đi cứu cấp một hoa tiêu A-37 bị pḥng không VC bắn, anh ta đă nhảy dù xuống một giờ rồi. Tôi đă nhiều lần cứu cấp hoa tiêu lâm nạn phải nhảy dù xuống như vậy, nhưng lần này, tôi cảm thấy rất đặc biệt, tại sao A-37 đi oanh tạc lại không báo cho trực thăng ứng trực ngay trên bầu trời? Tại sao một giờ sau mới gọi cứu cấp? Ai trách nhiệm ra lịnh trễ nải như vậy? Tôi phải cố hành động sao cho thật nhanh, tôi chụp lấy nón bay, nhảy lên ghế lái, chưa kịp xỏ chân vào giày, vẫy tay ra lịnh mở dây cột cánh quạt. Tôi ra hiệu 5 chiếc trực thăng c̣n lại, (có 2 chiếc vơ trang) cất cánh sau tôi. Phi hành đoàn của tôi chưa ai mang giày và áo an toàn. Chúng tôi vừa bay vừa trang bị cho đầy đủ. Tôi cũng đă kiểm soát xem tất cả phi hành đoàn đều có áo an toàn chưa v́ rằng hoa tiêu A-37 đă lâm nạn hơn một giờ qua, thời gian đủ dài để VC chuẩn bị những cái bẫy và hỏa lực để hạ những phi hành đoàn đến cứu cấp. Ngay sau khi cất cánh tại Hương Điền, tôi bấm máy ra lịnh 3 trực thăng vận tải theo sau phải giữ khoảng cách là 3 phút bay. Hai chiếc vơ trang bay hai bên cách tôi một phút bay, v́ tôi phải áp dụng chiến thuật bay cho phi lịnh hết sức nguy hiểm này. Trên bầu trời Quảng Trị, nắng gắt, gió Đông Nam thổi nhẹ. Quan Sát Cơ L-19 mang tên Pigeon 10 đang trách nhiệm bao vùng theo dơi. Tôi bắt đầu liên lạc với anh ta khi c̣n bay với cao độ 1000 bộ, với tốc độ 110 knotts. - Pigeon 10, Pigeon 10, Eagle 3, Eagle 3 gọi. (Eagle 3 là tên của tôi trong phi lịnh này). - Eagle 3, Eagle 3, Pigeon 10 tôi nghe anh 5/5. - Pigeon 10, chỉ dẫn mục tiêu. - 12 giờ trước mặt, - 12 giờ nhận rơ. Sau đó, tôi đă quyết định đưa trực thăng nhào xuống bay sát mặt đất, tốc độ 120 knotts và bắt đầu bay chiến thuật vào vùng tử địa. Cứ mỗi giây phút trôi qua là nguy hiểm đến gần hơn. Mặc dù có hai chiếc vơ trang bay sau tôi để yểm trợ, tôi cho lịnh xạ thủ Tuấn và cơ phi Xôm khi tôi nghiêng cánh bên nào thỉ bên đó bắn không ngừng để đàn áp hỏa lực VC dưới đất. Tôi đă liên lạc với Pigeon 10 nhiều lần và cũng nhận cùng một câu trả lời như trên. Hỏa lực VC từ đất bắn lên rát lắm, đạn xuyên thủng trực thăng nhiều nơi. Một viên đạn đă nổ tung phía trước bọc kính, một mảnh nhỏ đă ghim trên chân mày tôi, máu lăn xuống mí mắt làm tôi thấy màu đỏ loang loáng. Tôi biết ngay là vùng nguy hiểm vô cùng đă đến. Tôi bảo hoa tiêu phụ Trịnh Hữu Văn: - Tao đă trúng miểng đạn ở trán, mày để tay vào cần lái, bay theo tao. Văn, không nói lời nào, nhanh chóng đưa tay vào cần lái và nhẹ nhàng bay theo tôi. Đây là cách pḥng ngừa khi tôi th́nh ĺnh “ra đi” trên ghế lái. Từ Pḥng Kiểm Soát Hành Quân, sau khi nghe tiếng tôi, Thiếu Tá Nguyễn Văn Thanh, giọng nhẹ nhàng ra lịnh: - Eagle 3, phải hết sức cẩn thận. Rồi Thiếu Tá lập lại: “Phải hết sức cẩn thận, tôi nói anh hiểu không?” - Vâng, Eagle 3 tôi hiểu, Thiếu Tá! Liên lạc với Pigeon 10, th́ vẫn chỉ có một câu trả lời “12 giờ trước mặt!” Tôi thấy những viên đạn lửa của VC bay lên trực thăng trong lúc tôi nóng ḷng t́m hoa tiêu A-37 lâm nạn, th́nh ĺnh cơ phi Xôm hét to lên mừng rỡ: - Cánh dù bên trái! Thiếu Úy! Tôi nh́n về phía trái, thấy cành dù, sẵn sàng đáp xuống. Tôi dùng phương pháp đáp khẩn cấp từ 120 knotts, bay thấp trên mặt đất cùng lúc vội vàng bấm máy ra lịnh: - Tất cả ba trực thăng bay ra ngoài vùng. Trực thăng vơ trang bắn yểm trợ. Và tôi quyết định đáp xuống khi cả vùng trời ngập trong lửa đạn đủ loại, pháo và khói bụi mịt mù. Kéo cần lái sát vào người, cùng lúc tôi đưa cần cao độ sát xuống thấp, quẹo trái, áp dụng kỹ thuật đáp khẩn cấp. Đạn của ta và đạn của địch thi tài áp đảo nhau! VC c̣n giúp thêm cho tử thần bằng mưa pháo vào băi đáp, quang cảnh chẳng khác nào phi hành đoàn vào địa ngục để cứu hoa tiêu A-37. Cơ phi Xôm và xạ thủ Tuấn gan dạ và nhanh nhẹn nhảy xuống đất, phóng nhanh về phía hoa tiêu A-37 lâm nạn và kẹp hai tay xốc anh ta chạy vội vàng về trực thăng. Tôi nhận ra đó là Thiếu Úy Nguyễn Hàn. Khi cả ba đă bước lên trực thăng, tôi vội vă kéo cần lái, cần cao độ cất cánh trong bụi cát mịt mù dưới cơn băo pháo và súng lớn nhỏ các loại của VC. Chúng tôi vô cùng mừng rỡ, phi vụ cứu cấp thành công! Tôi vội bay hướng Đông Nam về Huế, Phú Bài! Mọi việc được hoàn tất mau chóng và chuyên nghiệp trong khi VC liên tục pháo vào băi đáp. Khi trực thăng của tôi đạt tới cao độ vào khoảng 200 bộ th́ bất ngờ bị hỏa tiễn hay 12 ly 7 đă bắn găy cánh quạt đuôi, trực thăng giựt mạnh quẹo sang trái. Tôi phải tắt máy và áp dụng thể thức đáp khẩn cấp. Bây giờ là đáp khẩn cấp thật sự đây! Năm người trên trực thăng, kể cả Thiếu Úy A-37 Nguyễn Hàn, phải t́m cách mưu sinh thoát hiểm, v́ trong không gian bom đạn mịt mù và mưa pháo VC, th́ tôi đâu muốn để cho anh em trực thăng khác ở bên ngoài bay vào cấp cứu chúng tôi, rồi chuyện ǵ sẽ xảy ra như tôi đang bị xảy ra như hiện tại. Ngay khi trực thăng đáp xuống đất, t́nh thế rất khẩn cấp, tôi gọi xạ thủ Tuấn mở cửa cho hoa tiêu phụ Trịnh Hữu Văn, và mọi người nhớ theo tôi, v́ tôi giữ máy liên lạc. Nhưng trong cơn mưa pháo của VC, cơ phi Xôm, xạ thủ Tuấn, hoa tiêu phụ Trịnh Hữu Văn và hoa tiêu A-37, Thiếu Úy Nguyễn Hàn, tất cả đă rời khỏi trực thăng qua cánh trái, khi tôi lấy dụng cụ và máy liên lạc cứu cấp xong, tôi nhảy xuống đất bên phải của trực thăng. Chỉ vài phút sau là chúng tôi mất liên lạc với nhau, không cách nào trông thấy nhau trong cơn băo pháo và bụi mịt mù. Địa ngục đây rồi! Dưới bầu trời nắng gay gắt, VC vẫn liên tục mưa pháo vào trực thăng của tôi. Bụi mù và mưa pháo vùng tử địa, không ai nh́n thấy ai nữa! Tôi nhiều lần khẩn khoản 3 hoa tiêu trực thăng đừng vào v́ rất nguy hiểm. Tôi biết 3 chiếc trực thăng c̣n lại nóng ḷng muốn cứu chúng tôi, cũng bay vào, rồi th́ bị đạn, rồi th́ cũng không tài nào thấy được nơi chúng tôi đang nấp nên trong khoảnh khắc giành giựt với tử thần đó, anh em cũng đành phải rời vùng. Lại có thêm 2 trực thăng Cobra và 1 chiếc trực thăng CH53 chuyên môn cứu cấp của Hoa Kỳ cũng bay đến cấp cứu! Tôi cũng đă dùng máy liên lạc và kêu gọi rời vùng ngay v́ súng pḥng không VC đầy dẫy chung quanh băi đáp, đừng bay vào rọ. Chiếc trực thăng của xấu số của tôi, danh số ở đuôi là 827 màu trắng dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ đă từng hiên ngang ngạo nghễ sau những tháng năm dài phục vụ con người, giờ đây, nhằm giờ hóa kiếp, nó đă bị thương mất đuôi, rồi bị bao nhiêu đạn pháo, nó bốc cháy ngùn ngụt. Tôi chạy khỏi phi cơ độ hơn 100 thước, lại bị thương vào đùi, tôi đă ngă xuống một hố bom cũ phủ đầy cỏ dại, tôi bất tỉnh, mê đi! Tiếng đạn pháo liên tục gầm vang, gió cuốn bụi cát xát mạnh vào mặt làm tôi choàng tỉnh và mở mắt ra! Bầu trời xám xịt, mây đen thấp xuống, bao phủ cả ṿm trời! Màn đêm xuống mau lẹ với cơn mưa to, nhiều sấm sét. Đến nửa đêm khi đạn pháo bớt, tôi nghe tiếng người lục soát, t́m kiếm chúng tôi. Tôi cố giữ hoàn toàn yên lặng, tôi nghĩ rằng họ là VC. Nằm núp dưới đất bùn dơ bẩn, trong cơn mưa sấm sét, tôi cảm thấy lạnh vô cùng, khi tiếng bọn VC đă đi xa, tôi phải lách ḿnh, ḅ đi một cách êm thắm, trầm ḿnh xuống lạch nước mưa mà trườn tới! Bấy giờ tôi liên tưởng đến những người khác, đầu óc tôi lẩn quẩn nghĩ miên man tới phi hành đoàn của tôi và hoa tiêu A-37 Nguyễn Hàn. Hoa tiêu phụ Trịnh Hữu Văn, nhà ở Quảng Tín, mới ở Mỹ về, tôi bay với Văn và đă đề nghị cho Văn là hoa tiêu phụ đi hành quân với tôi. Văn khoe c̣n giữ 300 Mỹ Kim và cất ở túi bay dưới chân để dành cưới vợ. C̣n Xôm và Tuấn rồi Hàn bây giờ ra sao rồi? Cả bốn người có bị VC gian ác bắt không? Tuấn và Hàn là người gốc Huế, mà Huế và Quảng Trị đâu xa ǵ! Chắc là cả bốn người biết luồn lách mà tránh được VC để về đến Huế. Tôi bị mặc cảm dằn vặt măi, bởi v́ tôi, v́ tôi quyết tâm bay vào lửa đạn để cứu hoa tiêu A-37 lâm nạn, nếu lúc Thiếu Tá Thanh nhắc chừng, tôi đă nhận thấy quá nguy hiểm mà bay trở lại th́ đă an toàn cho tất cả, nhưng rồi c̣n Thiếu Úy A-37 Nguyễn Hàn th́ sao? Dù sao, tôi vẫn cứ tự an ủi nếu ai cũng thiếu gan dạ, không chấp nhận hiểm nguy th́ t́nh chiến hữu đồng đội có ra chi. Bị thương, ừ th́ bị thương, chết ừ th́ chết, bổn phận không thể không hoàn tất. Mạng sống con người quư giá lắm. Nhưng cái quư giá đó không so sánh được nếu v́ lư tưởng, bổn phận phải hy sinh. Tôi đă từng bảo hoa tiêu Lê Công Quởn, đă hy sinh tại căn cứ Hoàng Đế phía Tây của Huế, rằng: - Là người làm tṛn nhiệm vụ, hy sinh cho người khác, khi chết sẽ được vinh hạnh thành Thánh, nếu không cũng được thành Thần. Tôi đă cầu nguyện cho bốn người này. Tôi cũng cầu xin Đức Chí Tôn: - Xin Ngài che chở cho tôi nếu Ngài nghĩ rằng tôi c̣n hữu ích cho đổng đội. Nhược bằng trái lại, xin cho tôi nhận một quả pháo trọn vẹn từ quân VC vô thần, gian ác! Tôi xin đoàn tụ cùng những bậc tiền nhân, ông cha anh hùng của tôi.” Tôi nghĩ đến vinh dự cao cả của bao nhiêu người lính gan dạ đă đem thân bảo vệ độc lập, ḥa b́nh của Tổ Quốc th́ đâu sá ǵ ḿnh bị thương hay bị hy sinh bởi súng đạn quân VC xâm lăng. Mải mê suy nghĩ đến bổn phận, mơ màng trong trách nhiệm thế rồi tôi rơi vào giấc ngủ lúc nào không hay. Tiếng chân người rầm rập trên mặt đất mỗi lúc một gần hơn, gần hơn, rồi một toán VC hung ác đứng gần chỗ tôi trốn. Tôi đă vùi thân ḿnh dưới tầng bùn đen. Tôi chẳng c̣n ǵ trên tay, chiếc nón bay, áo chống đạn đă để lại trên trực thăng đă cháy rụi rồi. Trống ngực đập th́nh thịch, tôi sợ hăi vô cùng, rồi chúng bỏ đi. Từ kinh nghiệm này, trên đường mưu sinh thoát hiểm về lại căn cứ, tôi đă hết sức đề pḥng từng ly, từng tí, tránh mọi bất trắc. Ṃ ra khỏi vũng bùn, chiếc áo bay của tôi quá nhiều túi, bây giờ chứa đầy bùn trở thành một gánh nặng nên tôi đă cởi bỏ, tôi chỉ c̣n mặc một chiếc quần lót mà thôi. Để ngụy trang, tôi đă dùng bùn trét đầy lên khắp người, và hết sức cẩn thận trườn đi bằng ngực, hoặc bằng lưng của tôi, bởi v́ làm sao tôi có thể đi được khi mà khớp nối của đầu xương đùi bị thương quá nặng. Tôi trườn được một đỗi vừa để ư ép tai ḿnh xuống mặt đất để nghe có tiếng chân ai đó hay không. Tai tôi cũng mở rộng, hết sức chăm chú. Lúc này trời cũng sắp tối đến rồi. Theo hướng gió từ xa đưa lại, tôi nghe tiếng nói eo éo của đám VC. Tôi vội vàng lẩn trốn ngay. Tôi thấy đói cồn cào và khát nước! Đạn pháo hôm nay ít hơn hôm qua. Rồi th́ mưa đổ xuống như thác, nhờ vào đó mà tôi di chuyển an toàn hơn. Tôi dùng hai bàn tay nắm cỏ cao kéo tới, chân trái phụ vào bằng cách đạp vào mặt đất cho toàn thân di chuyển về phía trước được hai hay ba chục mét. Thật may mắn làm sao! Mưa càng to th́ tôi càng di chuyển được dễ dàng và an toàn hơn, bởi lũ VC lười biếng đi kiểm soát trong cơn mưa. Tôi đă kiệt sức rồi, dù vậy tôi vẫn phải cố hết sức ḅ đến một hố nước, trầm ḿnh dưới vũng nước để được ấm hơn trên mặt đất gió thổi. Hai bàn tay khuấy nước cho sạch bớt bùn đất, rồi hai tay chụm lại hứng từng giọt nước mưa để thấm giọng cho đỡ cơn khát. Tôi tiếp tục làm như vậy cho đến khi tôi thấy bớt khát. Tôi tự bảo rằng dừng lại việc di chuyển về hướng Nam là tự sát, mỗi tấc tôi trườn tới có nghĩa là tôi về gần chỗ an toàn hơn, bởi vậy, tôi phải cố gắng di chuyển, tai lắng nghe xem có sự động tĩnh ǵ của lũ VC hay không. May mắn quá tôi không thấy cái ǵ cả, nhưng những dây điện thoại của VC liên lạc th́ giăng đầy như lưới nhện trong vùng tử địa chiến tranh tàn khốc này. Ngày thứ ba trên băi chiến trường, tôi thức giấc khi tiếng phi cơ phản lực vọng lại từ xa xôi lắm. Tôi hy vọng chúng đến gần tôi hơn, để tôi có thể đánh hiệu lên cho chúng biết rằng tôi vẫn c̣n sống. Tôi nhớ Thiếu Úy Hồng, cùng Phi Đoàn 233 của tôi, đă dùng chính hộp nước ngọt để gửi dấu hiệu cho trực thăng t́m kiếm của Đại Úy Nguyễn Văn Banh. Đại Úy Banh nhận được tín hiệu, tức khắc anh tắt máy cho được an toàn và đáp xuống một khoảng trống cạnh một con rạch nhỏ của dăy núi cao. Đại Úy Banh đă cứu được Thiếu Úy Hồng một cách ngoạn mục. Tôi cũng đă thết đăi Thiếu Úy Hồng một chầu mừng thoát chết. Tôi cũng đă học hỏi cách nào Thiếu Úy Hồng mưu sinh thoát hiểm để có ngày nào đó đến lượt tôi, và lúc này tôi đă có chút kinh nghiệm. Tôi đă quan sát cẩn thận chung quanh cho an toàn rồi tiếp tục ṃ về hướng Nam. Lúc đó một chiếc Quan Sát OV-10 trên bầu trời bỗng bay thẳng vút lên trời xanh tránh hỏa tiển SA7 của VC, để lại một vệt khói trắng màu tang. Tôi hú hồn cho chàng hoa tiêu trên chiếc OV-10 đó. Trong giây lát, tôi bỗng miên man nhớ lại h́nh ảnh của Đại Tá Khánh, Sư Đoàn Trưởng Sư Đoàn 1 Không Quân, Trung Tá Phước, Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 51 Chiến Thuật, c̣n gọi là Phước răng vàng. Tôi nhớ Thiếu Tá Bùi Quang Chính, Phi Đoàn Trưởng Phi Đoàn 233. Ông này làm anh cả th́ tốt hơn là Phi Đoàn Trưởng. Ông đă chăm sóc mọi thứ cho thuộc hạ dưới quyền, từ sĩ quan cho đến binh sĩ! Gia đ́nh ra sao, anh chị em thế nào. Ông biết rơ từng người trong gia đ́nh của Phi Đoàn. Tôi nợ ông nhiều lắm. Tôi phải trả ơn cho ông bà- bà giáo Diệp, bà đối xử với tôi như chị ruột. Cơn đói và rét kéo tôi vào giấc ngủ nữa rồi. Cơn mưa chiều nhiều sấm sét cùng tiếng nổ đạn pháo của hai bên Quốc Gia và Cộng Sản làm cho bầu không khí trở nên ồn ào ghê rợn khiến tôi tỉnh giấc, tôi không thể nào nghe rơ sự vật quanh tôi. Tôi sắp bước qua đêm thứ ba không quần, không áo! Chính bùn, đất và bèo cỏ đă thay cho quần áo và là phương tiện ngụy trang rất hữu hiệu cho tôi. Tôi thầm nhủ rằng lợi dụng đêm tối, mưa giông để ṃ đi sẽ làm ngắn lại con đường về căn cứ an toàn hơn. Mưa to quá, mưa xối xả như trút nước, sấm chớp vang trời như thiên lôi rượt đuổi, diệt trừ quỷ ma đang hành hạ con người. Nhờ mưa đêm che chở tôi tránh được sự ḍ t́m của bọn độc ác VC. Tôi vừa trườn qua một chiếc đầu lâu và bộ xương người trắng hếu. Bàn tay tôi nhẹ nhàng vuốt cái xương sọ cùng lúc van vái rằng: - Tôi biết tại sao anh bị giết, xin giúp tôi đến nơi b́nh an tôi sẽ cúng.. Một lúc sau tôi thấy một con mèo trắng, đi quanh quẩn bên tôi và rồi đi về hướng Nam. Tôi tự hỏi tại sao có con mèo hoang ở vùng lửa đạn này? Tôi không sợ ma mà muốn sống nên cố trườn theo con mèo, nhanh và nhanh hơn nữa, v́ vết thương đă có mùi thối như xác chết! Đây là băi chiến trường, vùng oanh kích tự do, chẳng có hàng tre hay bờ tường nào cao hơn nửa thước. Tất cả điêu tàn, là sắt máu hận thù! Ngày thứ tư trên băi chiến trường bắt đầu bằng đạn pháo ầm ĩ, súng nổ bốn bề, nhằm giết đi hết mọi sinh vật của Thượng Đế trên đời! Nghĩ cho cùng, nếu Hà Nội không ngu xuẩn nghe lời xúi dại của Liên Xô và Trung Cộng, xua quân xâm lấn miền Nam, th́ làm ǵ có cảnh gió tanh mưa máu hôm nay. Cốt nhục tương tàn, nồi da xáo thịt. Ngàn đời nguyền rủa sự ngu xuẩn tham lam của lũ Cộng Sản. Có lẽ là hai hay ba giờ chiều. Đây là ngày thứ tư tôi nằm trên vùng tử địa. Mây đen kéo tới, bầu trời đen kịt. Gió thổi càng lúc càng mạnh, gió mạnh làm ngả rạp đám cỏ cao quá đầu gối. Tôi vẫn luôn cảnh giác nghe ngóng về giọng nói của người và những động tĩnh bất thường trên đường thoát hiểm hướng về Nam. Tôi đă không có một chút ǵ ăn trong ba ngày qua, tôi thấy đói và đói. Tôi thấy ḿnh dần dần yếu đi, đến nỗi tôi muốn dừng lại một chỗ. Nhưng rồi tôi lại nghĩ, dừng lại chẳng khác nào tự tử. Đâu ai biết tôi nơi nào mà cứu cấp! Do vậy mà tôi phải cố gắng trườn đi từng tấc, từng tấc đất để về Nam. Nhờ vận chuyển tôi thấy có thêm sức mạnh và ấm người hơn. Bèo cám trên mặt nước dân miền Nam dùng để cho heo ăn, nhưng rồi không có cái ǵ bỏ vào miệng cho bao tử làm việc sinh ra nhiệt, nên tôi buộc ḷng nhặt một ít bỏ vào miệng nhai, nhai và nuốt, tôi cảm thấy có cát đất đi vào bao tử với nhúm bèo cám. Tôi nghĩ bao tử tôi reo vui khi làm vai tṛ sinh nhiệt cho thân tôi. Trời lại sắp mưa, gió giật, gió quyện vào nhau cuốn từng cộng rác to nhỏ xoáy tṛn bay cao lên khoảng trời đen sẫm. Trời mưa rồi, tôi trườn qua một mái tranh sụp xuống gần ngang mặt đất. Tôi nghe ai đó nói chuyện bên trong. Tôi chắc chắn chúng là lũ ác ôn VC đây rồi! Tôi lặng yên trườn đi nhanh xa chỗ đó. Tôi lại may mắn bởi trời đă đổ mưa to, VC chúng núp trong mái tranh nên đă không phát giác ra tôi! Thật quá căng thẳng đến nỗi tôi nghe được cả nhịp tim tôi đập liên hồi trong lồng ngực. Tôi lại may gặp con rạch nhỏ, tôi trườn ḿnh đi nhẹ nhàng đến nỗi không một gợn sóng lan ra trên mặt nước. Tôi tạm nghĩ ngơi, hít thở những hơi dài, coi như rất sảng khoái. Tôi đă cách xa cḥi lá giết người lúc năy rồi. Hai bàn tay tôi chừng như ră rời, những chỗ bị thương máu đă khô đặc lại, khi gặp nước làm tôi cảm giác xót buốt vô cùng! Thực ra tôi không c̣n sức di chuyển nữa rồi. Lúc bấy giờ tôi đang bên bờ sông Thạch Hăn. Tôi cẩn thận ṃ xuống ḍng sông ngước nh́n t́m chỗ trú an toàn. Tôi biết tôi có thể ngủ ngay tức khắc! Do vậy tôi phải t́m cách nào kín đáo nhứt để ẩn thân đi vào giấc ngủ vùi hẹn ḥ nhiều mộng mị. Tiếng pháo nổ gần làm tôi tỉnh ngủ, tôi thấy ḿnh đang nằm vắt trên hai rễ cây, ch́m dưới làn nước của bờ sông Thạch Hăn. Lúc đó mặt trời lên giữa đỉnh đầu, nắng gay gắt, không thấy có chút gió nào. Toàn khoảng không gian như bị tan tác, xé ra từng mảnh bởi những phi cơ phản lực oanh tạc thay nhau thả bom liên hồi xuống rặng núi phía Tây là dăy Trường Sơn. Tôi bước vào ngày thứ năm trên băi chiến trường chết người. Tôi luôn luôn nghĩ là tôi vô cùng may mắn. Trời đất cho tôi nhiều ân huệ, ngày nắng gắt cung cấp cho tôi nhiều năng lực ấm áp để rồi đêm đến trong cơn mưa lạnh tôi có đủ sức trườn đi, ṃ về miền an toàn nhanh hơn. Tôi trông thấy nhiều thùng đạn pháo in chữ Tàu, trên bờ Bắc sông Thạch Hăn, đựng trong những bao plastic, nói lên một thực tế là quân VC đang kiểm soát phần đất phía Bắc ḍng sông định mạng Thạch Hăn! Biết vậy tôi tự bảo tôi phải nhanh chóng lánh khỏi nơi tử địa này, bơi sang phía Nam càng sớm càng tốt. Lợi dụng trời tối, tôi nhẹ nhàng hết sức, cố bơi sang bờ Nam của ḍng sông mà không để lại bất cứ một lượn sóng nào, bởi tôi biết rất rơ là do làn sóng lan ra đó, VC sẽ phát giác ra tôi và rồi tôi sẽ lănh ngay một tràng AK kết liễu đời ḿnh! Khối nước to lớn và đám bèo trên mặt nước của ḍng sông làm rớt đi những mảng đất sét ngụy trang trên cái thân ốm đói của tôi. Vết thương trên đùi phải cũng bớt đau dai dẳng mấy ngày qua. Rồi cũng đến lúc tôi ṃ tới được bờ Nam rồi. Tôi t́m xem nơi nào có lỗ trống để tôi lết thân lên bờ. Tôi dùng hai tay bám vào mặt đất mà trườn lên bờ Nam rồi chui vào trong đám cỏ. Tôi trườn đi giữa những đám cỏ cao ngang ngực, khi bóng chiều xuống nhanh, mặt trời khuất sau dăy Trường Sơn, ánh sáng cuối ngày c̣n vất vưởng trên cánh đồng mênh mông đầy mùi tử khí. Mưa đêm qua lớn quá nên qua một ngày nắng gắt rồi mà vẫn c̣n nước đọng lại trên đường đi giúp tôi trườn tới dễ dàng như đang bơi lội trên đám cỏ sũng nước. Cứ lập đi lập lại măi động tác hai tay dang ra phía trước nắm cỏ kéo lê thân đi, chưn trái đạp vào đất! Cố gắng, tiếp tục cố gắng nữa. Muốn sống phải vươn lên. Chắc cũng được vài trăm thước rồi th́ phải, tôi cảm thấy đuối sức, hết hơi trườn tới nữa rồi! Băi cỏ voi cao quá, cao quá không ai có thể nh́n thấy tôi nằm trên láng cỏ ướt đó. Tôi thấy khát nước vô cùng, muốn uống bất cứ nước ǵ để thỏa măn cơn khát. Bất ngờ, may mắn làm sao, tôi thấy loáng thoáng vài anh lính Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam Cộng Ḥa lom khom chạy qua gần bên tôi. Tôi đă vận dụng hết sức mạnh c̣n lại để gọi: - Thủy Quân … Lục Chiến... Tiếng tôi đứt khoảng v́ không đủ hơi. Sau khi nói lên chữ “Lục Chiến”, tôi hoàn toàn hết hơi. Tôi đă hiểu tôi có cuộc gặp gỡ ly kỳ này là trời cho. - Đứng lên! Giơ tay lên! Một anh lính TQLC chĩa súng chăm chăm vào tôi và gằn giọng ra lịnh: Tôi nghe cái lịnh “đứng lên” của anh ta mà tức giận: - ĐM! …thiếu úy… hoa tiêu … trực thăng … găy chân... Sau câu nói hết sức lực đó, tôi như đi vào hôn mê. Bầu trời sụp tối, gió chiều đă thổi mơn man qua mặt tôi như bàn tay bà mẹ hiền vuốt má đứa con thân yêu. Tôi thấy nhẹ nhàng lâng lâng, trút mọi lo âu cho quá khứ. Một anh TQLC ḅ đến sát bên tôi, nói th́ thầm vào tai tôi: - Thiếu Úy, Thiếu Úy, bám vào lưng tôi để tôi ḅ kéo Thiếu Úy vào… Chưa bao giờ tôi được nghe hai tiếng “thiếu úy” yêu thương như lúc này, trong khi trên người tôi chỉ c̣n cái quần đùi! Hai tiếng gọi: “thiều úy” tức là anh em TQLC đă nhận ra tôi là đồng đội, là phi công lái trực thăng. Trước sự sống, toàn thân tôi như liệt đi, tôi nói nhỏ: - Lấy dây lưng TAB nối vào nhau, cột hai tay tôi và kéo, tôi không bám nổi. Anh TQLC ḅ vào chỗ trú quân của anh. Mặt trời lặn hẳn rồi, nhưng đứng gần cũng c̣n nh́n rơ mặt nhau. Gió Đông Nam nhẹ nhàng đưa hơi nước mát ḷng, mát dạ đến vùng chiến địa cài răng lược, quân ta và quân VC đóng xen kẽ nhau. Quả là phước đức vô cùng, đêm nay trời không mưa. Thật mầu nhiệm của Ơn Trên ban thưởng cho tôi. Tôi yên lặng tận hưởng sự sống lại, không thể nói lời nào khác nữa trong giây phút này, nhưng trong thâm tâm, tôi vui mừng khôn xiết, tôi biết rằng tôi đă được cứu, tôi được sống từ giờ này. Vài phút sau, hai anh lính TQLC lại ḅ đến bên tôi, một anh nằm sát đất, anh kia nâng tôi lên lưng anh nọ, rồi cả ba trườn vào nơi ẩn núp, nơi tuyến đầu xen kẽ cài răng lược giữa quân ta với địch. Nơi đây tôi lại bất ngờ gặp Thiếu Úy Thanh, một người bạn vốn là sinh viên sĩ quan cùng tiểu đội với tôi khi cả hai cùng được huấn luyện tại Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Thanh ngồi xuống, ôm lấy tôi từ từ nâng tôi ngồi dậy, cả hai ôm choàng nhau, nước mắt ràn dụa, chúng tôi nhắc lại kỷ niệm thời sinh viên sĩ quan khi cả hai cùng tŕnh diện sĩ quan cán bộ v́ bị phạt dă chiến 4 đêm, làm chúng tôi luyến tiếc thời khóa sinh. Thanh trao cho tôi một điếu Rubi quân tiếp vụ. Điếu thuốc thấm nước phân nửa, ngả màu vàng, cong ṿng, nhưng khi hít một hơi thông suốt th́ thấy ḷng sảng khoái. Bấy giờ chắc khoảng 9 hay 10 giờ đêm, khác với những đêm mưa tầm tă vừa qua, đêm nay mưa chỉ lấm tấm đủ làm ướt áo khách qua đường. Tôi được chuyển sang vùng an toàn hơn. Rời chỗ Thiếu Úy Thanh chia tay lưu luyến, tôi bắt tay cám ơn từng anh em và Thanh. Tôi dặn ḍ các anh nên hết sức cẩn thận, v́ sau mỗi lùm cỏ cao có VC núp. Tôi được đưa đến bộ Chỉ Huy Đại Đội, bởi tuyến đầu của Thanh, hai bên cọ sát đương đầu nhau trong gang tấc. Tôi được một anh lính TQLC cơng, ba anh khác đi theo phụ giúp, hai anh hai bên, và anh thứ ba phía sau. Con đường chuyển tôi đi qua nhiều dốc đất sét, đất sét gặp nước mưa làm con đường càng trơn trợt nguy hiểm, dễ dàng té ngă. Chúng tôi tới Bộ Chỉ Huy Đại Đội, nơi đây có bao cát chung quanh. Tôi hoàn toàn kiệt sức, bởi v́ tôi phải dùng hết sức ḿnh ôm chặt anh TQLC kḥm lưng cơng tôi. Do vậy, với ân t́nh huynh đệ chi binh xứng đáng ngàn vàng đó tôi đă lấy hết sức tàn để siết tay và nói lời cám ơn 4 anh TQLC vừa gan dạ vừa t́nh nguyện hy sinh cơng tôi ra khỏi bàn tay của tử thần. Tôi nhờ TQLC gọi máy liên lạc về Huế, và Đà Nẵng cho họ biết là tôi đă được cứu về đến nơi an toàn. Lúc đó, một anh TQLC đến bên tôi hỏi: - Thiếu Úy đói lắm hả, uống sữa nhé, chúng tôi cũng có ḿ Quân Tiếp Vụ. - Không, cám ơn anh quá đi, tôi chỉ buồn ngủ thôi. Tôi đáp nhanh và rơi vào giấc ngủ hồi nào không hay. Đến sáng, khoảng 7 hay 8 giờ, một chiếc xe thiết vận xa M113 đến trước Ban Chỉ Huy Đại Đội để chở tôi đi. Tôi vui mừng khôn xiết, nhắm mắt lại mơ màng. Trước khi chiếc M113 di chuyển, anh Đại Đội Phó bắt tay tôi siết mạnh và chúc mau lành để trở lại chiến trường với anh em. Anh cười, và cho biết thêm rằng lúc hơn 2 giờ khuya, một phi hành đoàn của Trung Úy Lưu, Phi Đoàn 233 có liên lạc với TQLC để đến bốc tôi về bịnh viện, nhưng anh từ chối v́ an ninh cho cả Đại Đội ban đêm. Đạn và súng cối VC sẵn sàng tấn công vào Đại Đội khi trực thăng đáp xuống rước tôi. Anh đă khước từ nhiều lần mặc dù Trung Úy Lưu khẩn khoản và nói rằng Trung Úy Lưu sẽ tắt hết đèn và tắt máy để đáp xuống bất ngờ. Tôi nghe chuyện mà thương cho người đứng đầu chiến tuyến, thương và cảm phục t́nh chiến hữu trong quân đội, thương Trung Úy Lưu. Hơn nửa giờ sau th́ chiếc M113 dừng lại, tôi được khiêng ra khỏi xe, tôi cám ơn các anh kỵ mă can trường. Xe đă lui mà tôi c̣n nghe lời chúc mau b́nh phục của họ. Tôi nh́n quanh quan sát, đây là trạm cứu thương giữa chiến trường, Bác Sĩ Quân Y TQLC nh́n tôi e ngại, thương t́nh. Lúc đó, trên người tôi chỉ có một chiếc quần lót lẫn śnh đất. Xót xa quá, nên bác sĩ lấy bộ đồ rằn ri TQLC có đính huy hiệu Quân Y, và bảo mấy anh y tá mặc vào cho tôi. Thú thật, trong bộ quân phục Binh Chủng anh hùng đó, trông tôi mạnh mẽ hơn lên. Tôi cám ơn họ nhiều lần, bác sĩ và binh sĩ TQLC can trường c̣n trẻ quá. Mặc xong bộ quân phục TQLC, một xe tải thương đă sẵn sàng để chuyển tôi về nơi an toàn hơn nữa để trực thăng đến bốc về bịnh viện. Xe chạy trên đường đất đỏ có một hàng cây bên trái. Gió buổi sáng len vào thùng xe làm tôi cảm thấy dễ chịu. Có lẽ sau đêm ngủ ngon lành nhiều mơ mộng vui tươi, tôi như có thêm nhiều sức lực. Sức lực có thêm là nhờ t́nh người, t́nh đồng đội, t́nh chiến hữu trong đấu tranh sinh tử có nhau. Xe cứu thương dừng lại nơi có tên Ngă Tư Quốc Tế, đây là Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 147/TQLC. Tôi được khiêng xuống, và xe cứu thương trở lại trạm Y Tế Tiền Phương, nơi có bác sĩ cứu tôi Nằm trên băng ca nơi yên ổn, có người chăm sóc thân mến, ḷng tôi rộn ràng nghĩ đến anh em ở Phi Đoàn 233 chắc đang chờ gặp tôi. Mắt tôi lơ đăng nh́n bầu trời xanh, mây trắng mà thầm cám ơn Thượng Đế, các đấng Thần Linh đă che chở cho tôi. Cám ơn những đêm mưa đầy sấm sét. Cám ơn người chết nằm giữa đường, xương sọ, xương người trắng hếu. Cám ơn Quân Đội đă sản sanh ra những người chiến hữu sống chết có nhau. Tôi về nơi yên lành mà sau lưng c̣n bao nhiêu lính trận phải mở mắt to lên, ngày đêm cho dù buồn ngủ đến cay xé. Làm sao đủ từ ngữ để nói lên tinh thần hy sinh cao cả của những người lính TQLC trên tuyến đầu lửa đạn. Bây giờ, ngồi ghi lại những ḍng chữ nầy, ḷng tôi vẫn c̣n bồi hồi, cảm động. Tôi thắc mắc tại sao ngày đó người lính miền Nam gan dạ đến như vậy? Lư tưởng bảo quốc, an dân? Lao vào mục tiêu, biết ḿnh sẽ hy sinh, nhưng vẫn có biết bao nhiêu người trẻ t́nh nguyện. Riêng chuyện của chính tôi, tinh thần nào là động cơ để 4 người lính TQLC không ngại bị ngă gục khi cơng tôi ra ngoài vùng binh lửa, cài răng lược. Tôi đă trườn đi năm đêm rồi, quăng đường dài chắc hơn 5 cây số, dẫy đầy ḿn bẫy và dây điện thoại của Cộng Sản! Tôi mang ơn những người lính Mũ Xanh nầy biết bao nhiêu! Ôi t́nh người, t́nh chiến hữu. Một phi vụ cứu cấp không thành: Thiếu Úy A-37 Nguyễn Hàn gan lỳ của chúng tôi đă hy sinh sau hai ngày lần ṃ về miền an toàn! Phi công phụ Trịnh Hữu Văn bị VC bắt sau 4 ngày thoát hiểm, sau này Văn được thả ra từ nhà tù miền Bắc, hiện nay, Văn cư trú tại Houston. Xạ thủ Tuấn, người trai xứ Huế không biết bây giờ ra sao? C̣n cơ phi Vơ Văn Xôm? Lúc tôi c̣n nằm trị thương tại Trung Tâm Y Khoa Không Quân Tân Sơn Nhứt, th́ chiếc quan tài của cơ phi Xôm được chuyển đến và hôm sau, trực thăng đưa về quê của Xôm ở Cai Lậy! Xôm t́m về gần đến vị trí của TQLC th́ bị lộ và VC đă giết, tiểu đội Trinh Sát TQLC đă t́m được xác Xôm với tấm thẻ bài! Ngày 7/10/1972 tôi bị bắn rơi, 5 ngày sau, ngày 12/10/1972 được anh em TQLCVN cứu về, tôi được đưa vào bịnh viện của Không Đoàn 366 của Không Quân Hoa Kỳ Đà Nẵng, được trị thương săn sóc tốt lành như chính những người lính Mỹ. Tất cả họ là đồng đội của tôi, tôi nợ mạng sống với các anh, làm sao tôi trả nổi? Và phép lạ nào kéo tôi từ Houston TX đến đây, Little Saig̣n CA này, đúng lúc đến nhà quàn để tiễn biệt một ân nhân. Tôi không bao giờ quên những người anh em Mũ Xanh Anh Hùng./. |
WoW !...Cám ơn Huynh Hoanglan22 đă tiếp tục đăng những H́nh Ảnh và Chiến Tích Oai Hùng của Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa năm xưa !...Như những kỹ niệm Thời Chinh Chiến mà Chúng Ta ra đi vẫn luôn ghi nhớ trong ḷng và măi măi !...
Thân Chúc Huynh Hoanglan22 và Gia Đ́nh 1 Năm Mới TÂN SỬU 2021 được Sức Khỏe Dồi Dào & An Khang Thịnh Vượng và Vạn Sự Như Ư !... Thân Chào Huynh ! |
Trận Diệt Chiến Xa Trên Dẫy Đồi
3 Attachment(s)
(H́nh 1) Các Sĩ quan TĐ11 Nhảy Dù tại sông Bồ 1973 Từ trái sang phải: Dũng, Quân, Thông, Tuấn, Oanh (H́nh 2) Trung Tá Nguyễn Đ́nh Bảo và Đại Tá Trương Vĩnh Phước TLP/SĐND tại Kampuchea (H́nh 3) Phù hiệu TĐ11 Nhảy Dù Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù, với huy hiệu Song Kiếm Trấn Ải, sau khi ngậm đắng nuốt cay phải để Mũ Đỏ Nguyễn đ́nh Bảo ở lại với Charlie, mối đau c̣n thấm trong tim gan, trong ḷng mọi quân nhân các cấp, cho tới ngày 15 tháng 4 năm 1972, ngoại trừ các con chim không may bị sa vào tay giặc, vài con chim cuối cùng trong đàn chim lạc của Song Kiếm Trấn Ải c̣n t́m về với gia đ́nh của ḿnh tại căn cứ Metro nơi đóng quân của Pháo Đội C1 Nhảy Dù, mấy ngày nay Pháo Đội C1 Nhảy Dù, theo lệnh trên nên cứ năm hay mười phút, lại cất tiếng vang vang trên dăy trường sơn, súng đại bác bắn tiếng một, như tiếng chuông chùa ngân vang khi chiều tàn, nghe đến năo ḷng, tiếng súng đại bác như tiếng pháo đơn lẻ vô duyên, ôi! Tiếng súng đại bác như tiếng quốc kêu từng tiếng một, từng tiếng một tha thiết gọi đàn! Nhớ bạn (nước) đau ḷng con quốc quốc (bà Huyện Thanh Quan) Mục đích để những anh em thất tán nghe tiếng pháo, may ra có ai c̣n đủ sức, định hướng trở về, nhưng hy vọng cuối cùng không c̣n nữa, những ngày sau đó không c̣n một tăm hơi nào, tuy vậy thỉnh thoảng tiếng súng Đại Bác lại cất tiếng ngân vang, niềm hy vọng tuy dập tắt, nhưng ḷng người vẫn c̣n nhen nhúm đợi chờ, niềm tin nhẹ bay, người pháo thủ Mũ Đỏ, không nói một lời sau khi bắn đạn đi, đạn sẽ rớt vào một điểm nào đó vùng Charlie và anh không sao ngăn nổi giọt lệ, nhẹ lăn trên g̣ má rám đen v́ khói súng, hay phải chăng vết tràm do nắng cao nguyên; tiếng thở dài nhẹ nhàng nhưng chứa chất nỗi căm hờn khôn tả, núi rừng như thấu ḷng người, chưa hết xuân mà hoa biếng nở, chim chẳng muốn nô đùa cùng nắng chói chan, tất cả đều đă ch́m ngập, trong tiếng thở dài u uẩn nghẹn ngào, trong ánh mắt căm hờn, thù này khó quên thù này phải ghi khắc trong tim, trong gan, trong từng thớ thịt, trong từng tế bào, cúi mặt chiêu niệm, linh hồn các chiến hữu Mũ Đỏ trong đàn chim không may gẫy cánh, tiếng pháo như tiếng kêu của chim Gia Gia, nghe muốn đứt từng khúc ruột. Thương bạn (nhà) mỏi miệng cái Gia Gia (bà Huyện Thanh Quan) Charlie hăy yên nghỉ, một ngày nào nữa đây hận này không quên, hận này phải trả, chim thần ưng anh dũng muôn phương, đôi chân dũng mănh càn qua chiến khu mà bọn quỉ đội nốt người cho rằng bất khả xâm phạm, chiếc mỏ cứng đập tan tành chủ nghĩa vô thần của loài quỷ đỏ, cánh đại bàng tung mây lướt gió, sóng trùng dương không làm chim mỏi cánh, nhưng không may gió trường sơn làm chim gẫy cánh, người ta không chú ư đến những chuỗi ngày oanh liệt của chim, người ta sẽ chú ư đến lần chim không may gẫy cánh, và họ sẽ nhắc nhở trăm ngàn lần chim mắc nạn, vết tràm khôn gột rửa được. Thứ hai ngày 17 tháng 4 năm 1972 Thiếu Tá Lê văn Mễ tiểu đoàn phó được bổ nhiệm làm Tiểu Đoàn Trưông Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù, cũng là ngày TĐ11ND chính thức mang vành khăn tang Cố Đại Tá Nguyễn Đ́nh Bảo, để trở về Sài G̣n chỉnh quân, đàn chim ưng về tổ ấm, chau chuốt lại bộ lông, mầu hoa rừng, vuốt lại móng để tung cánh trở lại núi rừng, trở lại ngàn khơi, đua cùng cây cỏ, cùng núi rừng, cùng đại dương bát ngát, móng vuốt này thử sức cùng bọn quỷ đang dầy xéo quê hương, mọi người im lặng nh́n nhau không nói , không nỗi đau nào cay đắng hơn, một lễ tuyên dương ngắn ngủi, một lễ truy điệu âm thầm, dù nắng mưa đă làm chai đá đời chiến binh, dù sa trường đă tôi luyện chí anh hùng trở thành sắt thép, nhưng cuộc chia ly này đă làm nát gan tím ruột! Ôi ! gịng nước mắt nào đây! Tuy không chan ḥa, như nhi nữ thường t́nh, không bi lụy như thiếu phụ Nam Sương, nhưng gịng nước mắt đắng cay, cô đọng lại, nay mới có cơ hội tràn ra, để nung chí tang bồng, cho thương yêu chồng chất được tỏ bầy, cho căm hờn được nung nấu, cho lời thề được xác nhận. Ta đi đi lời thể nguyền, Tung gươm thiêng Đời hùng cường Quyết chiến đấu đoàn quân ra đi, .................... ........ Sa Trường... Thấp thoáng bóng mây, Muôn bóng (quân) Dù bay rợp trời, (Lục Quân Việt Nam) Trời Kontum ảm đạm, hàng phượng vĩ không buồn nở hoa, gió biếng cuốn những lá rơi rụng bên đường, mặt trời buồn ngái ngủ, nắng ban mai khép nép chưa hiện h́nh, đoàn trai phong sương lên xe ngồi im bất động, tiếng cười đùa vô tư đă bị lễ truy điệu mang theo, ngay ngắn thẳng hàng trong tư thế nghiêm chỉnh, mắt họ nh́n về phương trời xa xôi cuốn hút, núi đồi như mang mang nỗi khắc khoải trong ḷng, họ trở về Pleiku, họ trở về Sài G̣n-Long B́nh nơi nung nấu chí phục thù, nơi hun đúc chí nam nhi, quyết tâm rửa hận. Đoàn hùng binh hiên ngang nh́n trong trời sương, (LQVN) chỉ ít ngày sau quân trang được cấp phát, quân số được bổ xung, kỹ thuật tác chiến, được trau dồi nhuần nhuyễn, cũng vừa đủ thời gian các quân nhân, trong đơn vị nhận diện nhau cùng một khu bưu chính, rồi đoàn hùng binh sẵn sàng lên đường, gươm đă mài xong, chí khí đă vững mạnh bùng lên hùng hồn, tinh thần đă xung mănh; hôm nay biết bao nhiêu giới chức đến khích lệ, biết bao nhiêu quan khách, dùng lời lẽ khích tướng khi đoàn quân chuẩn bị lên đường, ngày mai đàn chim Song Kiếm Trấn Ải, giă từ Long B́nh, giă từ Biên Ḥa, giă từ Sài G̣n và không quên giă từ người yêu thương để lên đường trả đại thù cho đơn vị, lần này lên đường không thăm Tây Nguyên với các em má đỏ môi hồng để trả nợ núi sông, mà lên đường thăm người em sông Hương núi Ngự, với hành trang quyết tâm bảo vệ quê hương, phải giành lại phần đất đă mất về tay giặc, cũng cần phải rửa hận cho vơi đi sầu thương nhớ. Huế, Huế không một bóng h́nh thân thương lai văng, để Huế diệu vợi, để Huế thơ mộng như ngày nào, mà Huế điêu tàn hoang phế, thân xác em trông thật ră rời, núi đồi kia im ĺm hờ hững, ai phụ nhau trong chiều hè oi ả, anh nâng em đứng dậy để vang khúc an b́nh, mùa hạ này, có trai, có gái, có già, có trẻ, để khúc ca mới lưu truyền cho hậu thế, cho ngàn đời sau, cho vạn đời sau, em hăy ngồi yên, để anh tô son, cho môi hồng đượm nét đa t́nh, em hăy ngồi đây, cho phép anh gỡ rối bụi tóc trần, tiếng súng xa sẽ không c̣n làm em rùng ḿnh, lo sợ, em hăy ngồi đây, đón nhận t́nh lính nghe em, người yêu ơi! T́nh lính đơn sơ nhưng chân thật, t́nh lính không bay bướm nhưng chưá chan, chất ngất, dài như trường sơn, rộng như biển cả. Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù, đă xử dụng Trung Đội 2 Quân Cảnh, thuộc Đại Đội 204 Quân Cảnh, quét sạch vấn rác cho cố đô, sống lại t́nh người, ngay ngày hôm sau không c̣n giờ phút lưu luyến Huế nữa, người lính Mũ Đỏ, mắt đăm chiêu nh́n dẫy trường sơn, thách thức lên đường, môi không c̣n mỉm cười, mà mím chặt, để giữ trọn chí căm hờn, đầu óc không c̣n th́ giờ nghĩ tới em, mà đang nghĩ dùng kế nào, để ngăn bước chân thù, đang dầy xéo quê hương, phải rồi! phải tung ngay ra tuyến đầu Mỹ Chánh, nơi địch quân, đang nḥm ngó, nơi địch quân, đang thăm ḍ để vượt qua, nếu địch quân vượt qua Mỹ Chánh dễ dàng, th́ Huế trong tay địch, phải cho địch quân thấy miếng mồi ngon dễ nuốt, nhưng không phải dễ làm, quà nào cho bọn hung thần phương Bắc, chắc chắn quân thù phải đưa thành phần hung bạo nhất, chiếm lấy miếng mồi ngon này, c̣n đợi ǵ mà ngư ông, lại không đưa miếng mồi ngon cho cá cắn câu, địch quân thấy được đơn vị vừa bỏ con chim đầu đàn lại Charlie, chắc chắn tinh thần đang sa sút, vậy c̣n đợi ǵ mà không đặt TĐ11ND vào Mỹ Chánh; tuyến địa đầu hung hiểm, rồi từ đó bọc ṿng cung sang tây nam theo thứ tự Tiểu Đoàn 9 Nhẩy Dù, rồi đến Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù, Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù và Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh Nhảy Dù trong khu căn cứ Ḥa Mỹ, đó nếu muốn chúng tôi ở thế pḥng thủ, phải cho chúng tôi, tự t́m cho ḿnh thế nằm, của rắn cobra để dễ cựa ḿnh, để dễ bề vùng lên, tiêu diệt quân thù, không thể nằm quanh tṛn, như loài rắn cỏ được, một đơn vị chuyên về lưu động chấp nhận tao ngộ chiến, lại bắt nằm một chỗ cúi đầu xuống đất, làm mục tiêu, cho địch quân thực tập tác xạ pháo binh. Tôi không nghĩ Charlie có thể làm mục tiêu, cho pháo binh địch bắn thực tập, ngày đêm, bắn hàng ngàn quả đạn vừa Hỏa Tiễn, Pháo Binh ṇng ngắn, ṇng dài, súng cối đủ loại, rồi nguyên một sư đoàn SĐ320, sư đoàn mệnh danh là sư đoàn Thép, sư đoàn Diện Biên Phủ của địch, con cưng của Bác và Đảng nhục nhă, luân phiên gửi từng trung đoàn tấn công, địch quân dùng chiến thuật xa luân chiến như vậy, suốt hai tuần lễ, mà Charlie không rữa nát cùng cỏ cây, Ấy vậy mà Charlie vẫn nguyên h́nh, địch vẫn không chiếm được Charlie, sau cùng nếu TĐ11ND không v́ hết lương thực, không v́ hết đạn phải rút lui! Th́ Charlie vẫn c̣n là mục tiêu cho địch thực tập tác xạ Pháo Binh. Nhưng chua cay, là mất Vị Tiểu Đoàn Trưởng v́ trúng đạn pháo binh thực tập của địch, một Tiểu Đoàn Trưởng Nhảy Dù, không phải hy sinh v́ chiến trận, mà hy sinh v́ trúng đạn pháo binh của địch, trong lúc địch thực tập tác xạ, nó đúng như vậy đó quí vị ạ, chiến tranh nó tồi bại như vậy đó, không thua sao được? Nếu một Tiểu Đoàn Nhảy Dù Việt Nam có một pháo đội pháo binh 105 của QLVNCH yểm trợ trực tiếp và một pháo đội 155 yểm trợ tăng cường khi cần, chỉ cần một ngàn đạn 105 mà thôi, nếu một Tiểu Đoàn địch cũng đến chiếm đóng mục tiêu tương tự như Charlie, trong ṿng một ngày tôi bảo đảm ngày thứ hai là ngày giỗ cho cả Tiểu Đoàn này; nó vô lư đến thế, cùng tận của trận mạc rồi, ấy thế mà nó xẩy đến cho đơn vị Nhảy Dù, đơn vị Tổng Trừ Bị của QLVNCH, hỏi rằng các đơn vị khác c̣n chịu biết bao đắng cay hơn, không ai biết đến, hàng trăm ngàn chiến sĩ vô danh, ngậm đắng nuốt cay, hàng trăm đơn vị của ta bị vùi lấp oan khiên, v́ không được chiến đấu đúng với nghĩa trận mạc, tôi không bao giờ đổ lỗi cho các cấp chỉ huy, nhưng tôi đổ lỗi cho trời cao, đă đọa đầy dân tộc tôi, chịu bao cảnh oan khiên, cho tới mức này, vẫn chưa vừa ḷng trời cao, đất đầy hay sao? Chưa hết sao? Chiến trường Trị Thiên, lại mời chào chúng tôi; mới ngày đầu vào vị trí pḥng thủ mà sao các bạn phương Bắc đă cạn t́nh, họ dàn chào chúng tôi bằng tất cả lực lượng pháo hùng hậu sẵn có của họ, đủ loại pháo nhắm vào ba pháo đội của TĐ1PBND, sau đó đến các đơn vị khác, v́ dầu sao bộ binh di chuyển cũng dễ ngụy trang hơn, nhưng chúng tôi đă biết trước là sẽ được dàn chào kỹ càng như vậy nên nhằm nḥ ǵ ba cái lăng nhăng này. Chó sủa mặc chó; Đoàn Pháo Binh Nhảy Dù luôn tiến tới Ta hiên ngang, ngày ngày bốn phương trời Đoàn lữ hành vẫn đi, (nhái theo Nguyễn Tấn Bạch) Mũ Đỏ không đi, Mũ Đỏ mạnh bạo tiến vào sa trường, chấp nhận tiến vào vùng tử địa, để Huế được thanh b́nh, để dân chúng miền Nam nước Việt được sống theo ư ḿnh, các đơn vị Mũ Đỏ vào vị trí đă được ấn định, nặng nề nhất vẫn là các đơn vị Pháo Binh, nhưng các đơn vị Pháo Mũ Đỏ, vào vị trí an toàn không một thiệt hại nào, không một ai bị ( rách áo hay thủng quần ) ba pháo đội phải từng khẩu ngụy trang vào vị trí, địch trên cao nh́n xuống, địch bên hông nh́n vào, nhưng chúng tôi vẫn nương theo triền đồi để địch quân không sao nhận diện được, những con gà cồ 105 ly từng con vào cạnh các lùm cây, đầu hướng về phương bắc, xa xa trông vị trí mỗi Pháo Đội không khác ǵ cánh rừng Tràm xanh ngắt, đó chính là công lao và kỹ thuật di chuyển, ngụy trang cao, của các Pháo Đội Trưởng, các Khẩu Đội Trưởng và các Pháo Thủ; chúng bực dọc, pháo liên hồi, nhưng may mắn kỹ thuật Pháo của chúng c̣n non kém, nên thiếu chính xác, nêu đêm ngày một vị quan khách nào đó, đứng quan sát sẽ thấy rằng các đơn vị pháo của địch, đang bắn cận pḥng cho các pháo đội Mũ Đỏ, chúng có thể bắn trúng vị trí pháo của ta, ngoại trừ chúng bắn góc cao, nhưng từ ngày nhập cuộc chúng tôi không thấy chúng xử dụng kỹ thuật tác xạ này, bởi vậy làm sao chúng có thể bắt ép chúng tôi, thiệt hại lúc này được, chúng tôi đă biết để tiên liệu, địch quân có khả năng cối, các loại súng cối 82 ly hay 120 ly bằng cách bắn, theo hướng chúng nhận diện được, nên chúng tôi rất thận trọng những diểm chúng có thể đặt súng cối, các toán viễn thám của Trinh Sát 2 không cho chúng làm được việc đó, Út Bạch Lan trên sân khấu hấp dẫn chừng nào, Út Bạch Lan (Trương văn Út) Đại Đội Trưởng Đại Đội 2 Trinh Sát Nhảy Dù của chúng tôi, c̣n hấp dẫn hơn nhiều, nhiều hơn trăm ngàn lần, tay chân quà quạng, nên ban đêm thích đi ṃ, ṃ lần nào trúng lần đó, v́ vậy chúng đành bó tay trước một địch thủ trinh sát lợi hại, có lẽ chúng chưa bao giờ gặp phải, chúng tung toán nào ra liền bị trinh sát thộp cổ toán đó, những con Thần Thử ŕnh mỗi rất chính xác, các toán tiền sát viên Pháo Binh của chúng, không một toán nào kịp liên lạc về đơn vị gốc, đều đă bị thộp cổ, các đài quan sát trên cao, không thấy rơ các vị trí Pháo của ta, mà chỉ quan sát được khói súng của ta, lơ lửng bay trên đồi non, v́ chúng tôi đóng quân ngang triền đồi, đóng quân như vậy thật gian lao vất vả, đổi lại chúng không thể quan sát được vị trí của ta, đặc công ư chúng chỉ làm tṛ cười cho chúng tôi, các ổ phục kích tự động, ḿn thay người đưa hàng đêm, từng toán đặc công về tŕnh diện bác và đảng, chính v́ vậy càng làm, các cấp chỉ huy của chúng giận dữ, điên cuồng, bằng mọi giá phải trả thu, các đơn vị Mũ Đỏ, phải tiêu diệt những đứa con yêu của Tổ Quốc Việt Nam, chính là lúc chúng tôi dương bẫy lên, đón nhận những con thiêu thân, t́m ánh sáng của ngọn đèn trong đêm tối. Quả thật đây là một chiến trường bất lợi cho đơn vị mới vào vị trí, ấm ớ là tan hàng ngay, địch ở trên cao hơn, các đài quan sát địch đặt bất cứ chỗ nào cũng nh́n rất rơ cách phối trí của ta, nhiều người ..... lúc đó b́nh phẩm, tại sao lại để TĐ11ND lên trên tuyến đầu, đơn vị mới bị đau thương tháng trước tại Charlie, nhưng họ không sao hiểu được những toan tính của Mũ Đỏ, nào ai biết TĐ11ND bây giờ không phải như các Tiểu Đoàn tái lập khác, cán bộ nồng cốt là các cán bộ cũ dầy dạn, quân nhân các cấp là những quân nhân từ các đơn vị Mũ Đỏ khác kéo qua, nói một cách rất dản dị, ngay lúc này tân binh TĐ11ND c̣n ít hơn, các đơn vị Mũ Đỏ khác, mà quân số lại đầy đủ nhất, trong đoàn quân Mũ Đỏ, bây giờ tiểu đoàn này rất mạnh, rất bén nhậy trong bất cứ chiến trường nào, rất sung mănh trong bất cứ t́nh huống nào, cho nên chấp nhận trách nhiệm đánh lừa địch, miếng mồi nhử cho cá cắn câu, nếu không chịu vào hang làm sao có thể tóm cổ được cọp, lần này TĐ11ND không ở t́nh trạng làm mục tiêu cho Pháo Binh Địch thực tập tác xạ, mà là làm miếng mồi ngon nhử các cấp chỉ huy đang tập đánh vần, để học chiến thuật tứ khoái nhất măn, của quan thầy Mao Sếng Sáng phương bắc xua quân vào bẫy, từ trên xuống dưới đồng ḷng làm tṛ hú tim, thích thú dương bẫy đón nhận những đơn vị tinh nhuệ của địch, biết trước một chọi năm, chọi mười nhưng phần thắng phải trong tay ta, v́ địch thiếu cấp chỉ huy, chịu suy tính, mà chỉ biết thí quân, coi mạng sống cấp dưới như cỏ cây, miễn sao nhận được tiếng chiến thắng, nhưng ảo vọng đó không đến với Quân Đội Nhân Dân Miền Bắc, một khi các đơn vị Mũ Đỏ đă có chuẩn bị, đây chính là dịp tốt để TĐ11ND rửa hận, cho nên ngay khi tới vị trí đóng quân, TĐ11ND bung rộng sang hướng tây liền chạm địch nặng, các cấp chỉ huy đại đội của TĐ11ND đă dùng hỏa lực pháo binh nhanh chóng và chính xác, hàng trăm đạn pháo bao phủ mục tiêu bọn cán ngố gọi là pháo bầy cộng với lối đánh, tốc chiến, tốc thắng, nhất là trên vai c̣n mang nặng ư chí phục thù, vừa gặp địch là đoàn thần ưng tung cánh đại bàng, chụp bắt đàn gà con phương bắc, như chúa sơn lâm gặp nai tơ, địch quân chỉ c̣n hai con đường chọn lựa, một là đầu hàng, hai là phải chết, quá sợ hăi trước một địch thủ vô cùng lợi hại, đơn vị tổng trừ bị của quân đội nhân dân, không c̣n chọn lựa nào hợp với khả năng hơn, chọn lựa đường chém vè, là hợp lư nhất của bọn cáo chồn miền bắc, chúng bỏ chạy như đàn vịt bị cáo vồ, chúng quên rằng các toán tiền sát viên của ta, làm sao bỏ lỡ dịp thực tập này, những pháo thủ đă có đầy kinh nghiệm chiến trường, đưa những loạt đạn CVT chụp lên đầu chúng như hàng trăm hàng ngàn chiếc nơm, chụp xuống đầu đàn cá, bơi trên luồng nước chật hẹp không đường thoát thân, thật tội nghiệp, chúng đành đoạn phải bỏ lại cả xác Tiểu Đoàn Trưởng, cùng máy vô tuyến liên lạc, c̣n đang liên lạc, món quà đầu tay của đoàn chim Song Kiếm Trấn Ải, cũng khá cao đấy, xin các vị đọc tới đây công bằng mà hiểu cho, dù cho có giết được dăm ba tiểu đoàn trưởng của chúng, làm sao có thể sánh với một Nguyễn Đ́nh Bảo của ta được! V́ vậy ta vẫn c̣n đau; huống chi chỉ mới thịt được có một tiểu đoàn trưởng, của SĐ325; Không làm sao gặt hái kết quả cao hơn được, thôi có cũng c̣n hơn không, nhất định chưa chấm dứt tại đây, chỉ tạm an ủi dầu sao chăng nữa cũng là món quà đầu tay, nhờ vậy ta biết được SĐ325CSBV đă có mặt ở bờ nam sông Mỹ Chánh. Trận chiến vừa tạm ngưng, chúng tôi tháp tùng trên thiết quân vận có mặt ngay tại trận địa, để quan sát quân đội nhân dân, đơn vị thuộc SĐ325CSBV, những em bé tuổi cần cắp sách đến trường, nay nằm ngủ ngàn đời tại đây, cuộc chiến này đến bao giờ tàn, tôi thật sự ước mong cho cuộc chiến tương tàn này lắng xuống, để chúng tôi có thể đi thăm những thôn xóm hoang vu từ nam chí bắc, để những em bé xứ bắc không phải nằm chết kinh hoàng tại những nơi dèo heo hút gió như tại đây, tôi cúi xuống nh́n mặt một em có lẽ là cấp chỉ huy của SĐ325. Tôi nói nhẹ nhàng trong lúc vuốt mắt, để em có thể nhắm mắt ra đi. -Thôi nhé em hăy nhắm mắt ngủ yên, tiếc rằng không có lư lịch, để anh thông báo cho gia đ́nh em biết tin, em đă hy sinh trong cuộc chiến tương tàn, mà chúng ta không có lư do biện bạch, đúng hay sai không là quyền của chúng ta, nhưng miền bắc đă sai lầm mang tai họa, cho miền nam, xua quân xâm lấn, bằng lư do lừa bịp, c̣n anh và em chúng ta một ngày nào đó, những người c̣n sống phải ôm nhau, nh́n nhau nhận ra chúng ta cùng gịng giống Tiên Rồng, chúng ta phải thương nhau để mà sống, để cùng nhau xây dựng đất nước Việt Nam. Chúng ta đă phí phạm quá nhiều tinh hoa, của đất nước! Thôi nhé vĩnh biệt em. Tin t́nh báo của QĐ1 chúng chuẩn bị đánh Huế quả không sai, nếu đơn vị Mũ Đỏ không có mặt kịp thời, không chừng Huế cũng không hơn Quảng Trị bao xa, nh́n vào tác phong, của những quân nhân vô kỷ luật, ngoài đường phố Huế những ngày qua, mọi người đều ngao ngán cho Huế, ai cũng xót xa cảm nhận rằng, những quân nhân vô kỷ luật này, đang mời mọc niềm bất hạnh cho Huế, cho nên ai cũng phải lo ngại cho số phận của Huế, thêm vành khăn sô cho Huế hay sao? Nếu không có ai đó vực Huế thức dậy, Huế c̣n phải ngái ngủ, ngơ ngác đến bao giờ? Lần này Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù ra quân rất cẩn trọng, coi gị, coi cẳng tới cấp chỉ huy thấp nhất trong đơn vị tiền quân, mọi người không muốn thí quân, phải chắc ăn mới đánh, những tên khát máu chuyến này, chắc chắn phải nhận lănh chua cay, bởi v́ trận này đơn vị Mũ Đỏ toàn quyền quyết định, không c̣n bị bó tay như Tây Nguyên, mọi người đă khóc Nguyễn Đ́nh Bảo, như tiễn đưa người anh em ruột thịt, Đ/T Lịch đă làm hết sức của ông nhưng trên không chấp thuận, ông muốn chứng tỏ cho mọi người thấy tận mắt thế nào là sở trường, thế nào là sở đoản của các chiến binh Mũ Đỏ, ông muốn cho mọi người thấy, cách phối trí quân, linh động, khi ẩn, khi hiện, đoàn quân Mũ Đỏ khi ẩn (ngụy trang kín đáo), khi hiện (tung quân t́m địch) đánh lừa địch quân, làm cho chúng phải rối loạn, không sao có thể ḍ la cách phối trí quân của ta một cách chính xác được, đoàn quân Mũ Đỏ đôi lúc muốn cho địch quân thấy rơ sơ hở của ḿnh, cố t́nh che dấu những tụ điểm lợi hại, để dụ cho địch quân phải đánh v́ chúng tưởng đây là đơn vị mới bị thiệt hại, mới bị lao đao cho nên rất dễ ăn, nhử chúng vào ṿng tử địa cho Song Kiếm Trấn Ải rửa hận, quả nhiên địch quân....Những cấp chỉ huy lực học chưa qua bậc tiểu học, những tên cai của đồn điền cao su phải suy đoán như vậy, không thể nào khác hơn, sự lầm lẫn đó chứng minh, cho bọn cuồng đồ thấy được chân tướng của chúng, chân tướng của bọn khát máu sinh Bắc tử Nam. Địch có nội tuyến từ đâu đó, nên rất rơ vị trí đóng quân của các đơn vị Mũ Đỏ, một trăm ngàn lần như vậy, nhưng chúng không thể biết cách phối trí quân của từng đơn vị Mũ Đỏ, kinh nghiệm khi chúng tôi tăng phái cho các Quân Đoàn là chịu đắng cay như nhau, địch quân biết tên từng đơn vị Mũ Đỏ tham chiến, tên cấp chỉ huy Mũ Đỏ, nhưng địch làm sao biết rơ sức mạnh của từng đơn vị Mũ Đỏ được, nên địch đă lầm và đành nhận lănh thảm bại, nếu chúng biết là các cấp chỉ huy của QLVNCH, không khờ dại như khả năng suy đoán của chúng, nếu chúng suy đoán được các cấp chỉ huy của đoàn quân Mũ Đỏ, có tŕnh độ tác chiến trên cơ chúng, th́ chúng phải hiểu rằng: Đơn vị tuyến đầu của Mũ Đỏ, phải là đại diện cho đoàn quân Mũ Đỏ, tất nhiên không phải là đơn vị yếu như chúng tưởng, th́ chưa chắc đă có trận thư hùng này. Cũng vẫn bài ca Tiên Hạ Thủ Vi Cường, chúng pháo vùi dập các đơn vị Mũ Đỏ, nhất là TĐ11ND và các pháo đội, là bị pháo thật kỹ càng nhất, hiện tại Song Kiếm đang Trấn Ải địa đầu, nhưng đây không phải là Charlie, các chiến sĩ Mũ Đỏ được quyền lựa chọn vị trí pḥng thủ miễn sao làm tṛn phận sự của ḿnh là được, nên vị trí pḥng thủ dập dờn như ở ngay bờ sông, thực tế ở cách xa bờ sông, nếu dại dột đóng quân ngay trên bờ sông Mỹ Chánh, đúng là làm mồi cho chiến xa, địch quân thăm ḍ nhiều lần chắc chắn chúng phải hoang mang, chắc chắn chúng không xác định được tuyến pḥng thủ chính của ta, bây giờ các cấp chỉ huy Mũ Đỏ, biết rơ khả năng của các đơn vị nhỏ nhất, từ dưới lên trên phối hợp nhịp nhàng, trung tâm phối hợp hỏa lực của TĐ1PBND Thiếu Tá Đinh Thành Tấn trưởng ban 3, đă sẵn sàng những hỏa tập bên phía bắc và phía nam sông Mỹ Chánh, các hỏa tập đă được các Tiền Sát Viên Pháo Binh phối hợp cùng các Đại Đội Trưởng nằm ngay tuyến đầu, chung ư thiết lập và điều chỉnh kỹ càng, các Pháo Đội Trưởng kỹ thuật cao, kinh nghiệm chiến trường dầy dặn quyết tâm trong trận thư hùng này, nên đă định liệu các loại đạn cho từng hỏa tập, cách bắn làm sao an toàn tối đa cho quân bạn, thiệt hại tối đa cho địch quân, theo đúng ước mong của mọi người, v́ cùng đội chung mầu nón Đỏ, cho nên tất cả mọi chiến binh Mũ Đỏ dù là Công Binh, Bộ Binh, Truyền Tin, Pháo Binh, Quân Y hay Trinh Sát cũng đều chung nhịp thở, cùng chung một mối hận, cùng chung một ư chí phục thù, ngh́n người như một phải chiến thắng, phải trả thù, tất cả đều nắm tay, dơ cao, với ư chí, quyết chiến, quyết thắng, nếu để họ hô to lời sắt đá này, chắc phải chấn động núi rừng, chim muông thú dữ phải náo loạn, như vậy sẽ bị lộ rơ mục tiêu cho quân thù, đoàn quân Mũ Đỏ âm thầm dơ tay cao, bàn tay nắm chặt, im lặng ngước mắt nh́n trời... Xin trời cao... Xin trời cao, đón nhận ư chí sắt thép này. Khi LĐ2ND vừa phối trí quân xong, Đại Đội 2 Trinh Sát Nhảy Dù liền bung các toán viễn thám, xâm nhập vào vùng phía bắc của sông Mỹ Chánh, đây chính là con mắt nh́n thẳng vào tim gan địch; các toán viễn thám này, làm địch quân phải điên đầu, chúng bung quân lùng kiếm, nhưng vô ích, đôi khi các toán Viễn thám cho tọa độ điểm đứng, địch quân thiếu ǵ chuyên viên giải mă, ngay lập tức chúng cho đại quân đến, bao vây điểm đóng quân của Viễn Thám, nhưng than ôi! Chúng không thấy toán Viễn Thám đâu, chúng thấy ngay, một trận hỏa lực, do từng trưởng toán viễn thám thiết lập chụp xuống đầu chúng, thê thảm thay không diệt được tai mắt của Mũ Đỏ, mà lại mang thiệt hại nặng nề cho đơn vị. Hôm nay cũng là lúc LĐ3ND mới từ An Lộc ra mang theo TĐ2ND, TĐ3ND, TĐ5ND, TĐ2PBND và các đơn vị cơ hữu, yểm trợ của Lữ Đoàn này, TĐ5ND do Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu chỉ huy, Thiếu Tá Lê Hồng tiểu đoàn phó, TĐ5ND là tiểu đoàn thống thuộc, cơ hữu của LĐ2ND cho nên được trả về đơn vị mẹ và được điều động thọc thẳng vào sườn tây, v́ sườn tây c̣n trống trải, nhất là ngày đầu nhập cuộc, TĐ11ND vừa tiến ra sướn tây chừng vài cây số là đụng độ mạnh ngay lập tức, cái nhọt bên hông cần phải nhổ đi mới được, LĐ2ND tin tưởng có đơn vị địch ém quân đâu đó, hoặc ít nhất cũng là những toán đầu cầu, t́nh báo của các đơn vị Mũ Đỏ luôn luôn kém hơn các đơn vị địa phương, theo Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn th́ chúng chuẩn bị dứt điểm Huế cho nên chúng phải có đơn vị làm đầu cầu sẵn, khi chúng thấy các đơn vị Mũ Đỏ nhập cuộc chúng đành ém quân tại chỗ, quả như vậy khi TĐ5ND thọc sâu vào chân núi, theo hướng tây bắc, không đi theo bờ sông Mỹ Chánh, mà TĐ5ND tiến quân theo dẫy rừng tràm tuy không cao, nhưng đủ che những cặp mắt quan sát của địch quân, quả như vậy dấu tích của loài chồn bắt buộc phải lộ diện, khi đoàn quân Mũ Đỏ vừa bắt đầu lên đồi, là gặp phải sức kháng cự mănh liệt của địch quân, hang ổ của chúng bị khám phá, địch xử dụng pháo từ La Vang bắn xuống, từ dẫy trường sơn bắn ra và các loại súng cối từ phía bắc bờ sông Mỹ Chánh bắn lại, làm khó khăn cho TĐ5ND, nhưng với cách phối hợp hỏa lực nhịp nhàng, ăn khớp với nhau, TĐ5ND đă làm chủ chiến trường rất mau lẹ, sau gần hai giờ giao tranh TĐ5ND đă tiêu diệt trọn một đại đội địch, bắt được tù binh, khai thác biết tù binh là trung đội trưởng đặc công, thuộc đơn vị đặc công của SĐ325CSBVN, chúng nhận được lệnh vượt sông Mỹ Chánh, thay một đơn vị khác đă ém quân lâu ngày tại đây, việc thay đổi nhiệm vụ chỉ mới cách nay hai hôm, nhưng trong đêm chúng nhận được lệnh xâm nhập và điều nghiên nơi đóng quân của TĐ11ND, đơn vị này chưa kịp thi hành th́ ngày hôm sau bị TĐ5ND tiêu diệt, ngày kế tiếp chúng pháo dồn dập TĐ11ND và các Pháo Đội, lúc này TĐ3ND do Thiếu Tá Trần Văn Sơn chỉ huy, vào thay thế TĐ5ND ra ngoài nghĩ dưỡng quân, v́ Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, chưa được nghĩ dưỡng quân ngày nào, từ chiến trừơng An Lộc, TĐ5ND đă ra Huế và nhập cuộc ngay. Ngày 13 tháng 5 năm 1972 LĐ2ND chính thức nhận được lệnh tăng cường, thêm một pháo đội 155 ly, Pháo ĐộiA2ND và TĐ3ND; trong ngày TĐ3ND liền được điều động vào thay thế vùng đóng quân của TĐ5ND, lục soát từ vị trí đóng quân của TĐ11ND đến dăy trường sơn dọc theo bờ sông Mỹ Chánh, con đường t́nh TĐ5ND chưa có giờ lục soát, tức th́ TĐ3ND lại đụng độ với một đơn vị địch không rơ đơn vị, Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù gặp nhiều khó khăn, v́ những đơn vị súng cối của địch từ phía bắc sông Mỹ Chánh can thiệp liên tục, không khi nào các chiến binh Mũ Đỏ lại chấp nhận cho chúng tung hoành, một ḿnh một chợ như vậy được, chúng được quyền đó, trừ khi ngoài tầm Pháo Binh của ta, hay ta không quan sát được, nhưng lần này chính là lần đầu tiên chúng gặp phải một địch thủ trên chân, bất cứ lúc nào chúng xuất hiện là các loạt pháo TOT (time on target = nghĩa là cùng một lúc đạn của các pháo đội nổ chụp ngay lên đầu chúng, lần đầu tiên chúng tôi bắt được tài liệu của chúng, chúng gọi các loạt đạn TOT của ta là pháo bầy) đàn gà tre tan nát không kịp kêu tiếng thất thanh, các đơn vị địch từ bộ binh, súng nặng, hay pháo binh gặp thất bại này sang thất bại khác, các chiêu của địch quân tung ra đều bị bẻ gẫy, (khi vào tới La Vang đoàn quân Mũ Đỏ bắt được tài liệu của chúng than rằng: Các đơn vị Ngụy Dù Sài G̣n chúng có sức chiến đấu giống nhau không đơn vị nào hơn, không đơn vị nào kém, cho nên khi bộ đội gặp bất cứ đơn vị nào của Ngụy Dù cũng phải thận trọng) Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù tuy chiến thắng, nhưng cũng chưa đáng khích lệ, v́ chúng để lại tử thi và vũ khí tất cả đều không khai thác được điều nào mới mẻ, cũng như không có tài liệu để khai thác tin tức, c̣n lại cách duy nhất là quan sát quân phục, chúng ta chỉ nhận diện được đó là trang bị của các đơn vị bộ đội miền Bắc, địch bỏ chạy sang phía bắc sông Mỹ Chánh, lần này chúng pháo vũ băo hơn, chứng tỏ chúng đă được tăng cưỡng pháo, cũng như đạn dược, chúng đă chuẩn bị một chiến trường mới, ai cũng ước đoán là chúng sắp mở đợt tấn công vào phía nam bờ sông Mỹ Chánh, nếu không như vậy, bộ đội chúng sẽ mất hết tinh thần chiến đấu, v́ mấy ngày nay, chúng bị đoàn quân Mũ Đo, cho nếm từ thất bại này, đến thất bại khác, nói chung ngày nào chúng cũng thất bại ê chề, ngày nào chúng cũng nếm mùi chua cay, bây giờ chúng nhận thấy ngay, là biển người của chúng đă bị chặn lại bởi ư chí sắt thép, Cố Gắng của đoàn quân Mũ Đỏ, đặc biệt là lâu nay các hoạt động của chúng ở phía bắc sông Mỹ Chánh hoàn toàn tự do, nay chúng không c̣n được tung hoành như trước, nếu chúng đi lẻ tẻ như những ngày trước là bị mất tích ngay, nếu đi đông là bị Pháo vùi dập phải tan hàng, chúng cảm thấy mọi hoạt động của chúng, đều bị tai mắt của ta chế ngự, cấp chỉ huy của chúng t́m mọi cách bịt mắt ta, nhưng ai cho chúng làm được việc đó, v́ các chiến sĩ trinh sát của ĐĐ2TS/ND, luôn luôn chơi tṛ hú tim, làm cho chúng phải điên đầu; trận chiến không giới tuyến này, công đầu phải dành cho các chiến sĩ Trinh Sát Nhảy Dù, phải công bằng mà nói như vậy. Tin tức nóng hổi của hai toán Viễn Thám, thuộc ĐĐ2TS/ND vượt sông Mỹ Chánh bằng đường bộ đi sâu về hướng bắc 7 Km, cho biết những đợt chuyển quân của địch, bị các toán tai mắt của ta, đă xác định được điểm đóng quân của địch, thật chính xác, mỗi lần như vậy dù đêm hay ngày, chúng cũng được pháo TOT hỏi thăm kỹ càng, những con Thần Thử báo cáo đầy đủ, từng hoạt động của địch, để bộ chỉ huy LĐ2ND dương cái bẫy ra, các anh em Mũ Đỏ biết địch biết ta, chứ không mù ḷa như chiến trường Tây Nguyên, địch quân cũng biết điều đó, chúng tung ra nhiều đơn vị t́m kiếm tai mắt của ta, mỗi khi chúng lại gần tai mắt của ta, chúng c̣n đang ngơ ngác t́m kiếm, liền bị các chiến sĩ Mũ Đỏ thuộc ĐĐ2TS/ND, đưa các loạt Pháo TOT, đập xuống đầu chúng thật mănh liệt, chúng đành chạy tháo thân, quả thật chiến công, của các toán viễn thám, không phải là nhỏ, nhưng chiến công vô danh này ít ai biết đến, pháo binh mà không có tai mắt, chỉ là pháo binh mù. Ai cũng muốn cho TĐ11ND được rửa mặt anh tài trong trận này, tinh thần và quân số lúc này TĐ11ND rất cao, địch quân điều nghiên, kỹ càng, con cháu bác chỉ biết rằng TĐ11ND chính là, đơn vị mới bỏ lại Nguyễn Đ́nh Bảo tại Charlie, nắm ngay lấy cơ hội, chúng cho là ngàn năm một thuở, chúng cho rằng đơn vị mới thiệt hại nặng nề, làm sao có tinh thần chiến đấu được, ngay cả bạn cũng lo ngại; nhưng đây không phải là canh bạc tháu cáy mà là canh bạc chắc ăn, canh x́ phé trong tay hai đôi, chỉ có một đôi nhỏ trên mặt, địch thủ ỷ trên mặt có x́, già, đầm cơ và cẩu bích, liền vung tay táp pi, canh bạc này ta nhất quyết phải thắng không có huề, canh bạc này là canh bạc quyết tâm, không khác canh bạc của đức Trần Hưng Đạo năm xưa (nếu không thắng giặc thề không qua khúc sông này), đây là canh bạc mà tinh thần đoàn quân Mũ Đỏ ngh́n người như một. Trong bàn cờ, hay ngoài chiến trận, ai lừa được đối phương người đó sẽ nắm được, một phần ưu việt trong tay, cổ nhân đă nói biết người biết ta trăm trận trăm thắng tuy nhiên sự thắng bại nhiều khi cũng c̣n do ư trời, canh bạc càng lúc càng hung bạo v́ địch nhiều vốn, địch pháo tàn bạo không thua ǵ các mặt trận Hạ Lào, Kon Tum, An Lộc, Khe Sanh.... quả thật ta vốn liếng lúc này xuống thấp hơn địch. Sau khi làm xong nhiệm vụ, TĐ3ND rút về phía nam của TĐ11ND, không một ai trong Đoàn Quân Mũ Đỏ, muốn để một thất thố nhỏ nào có lợi cho địch, trận này phải chiến thắng một trăm phần trăm, địch quân tung bất cứ đơn vị nào vào trận địa, đều phải bị tiêu diệt, quân ta chỉ được phép thiệt hại nhẹ nhàng, v́ các cấp chỉ huy của địch đa số là vô học, làm sao tinh khôn cho được, địch quân chỉ có thể thắng ta khi chúng dùng mười chọi một, tức là chúng thí quân, hay nói cho chỉnh hơn chúng chỉ biết đánh theo lối biển người, lấy thịt đè người, ( cũng như hôm nay chúng đang chấn hưng kinh tế, bằng cách cho con gái Việt, đi làm điếm quốc tế, lấy chồng ngoại quốc, cho con trai Việt đi làm nô lệ lao động, để lấy ngoại tệ, tài cán của bọn lănh tụ Cộng Sản là như vậy, kh Kế hoạch chính của chúng là bất ngờ, đánh úp các đơn vị ta, dùng đông đánh ít, chúng không ngờ chúng ta phản công kịp thời, nhất là các cơ quan đầu năo của chúng ta tại Sài G̣n, những đứa con yêu của Tổ Quốc Việt Nam đă chận đứng kịp thời sức tiến của bọn cuồng đồ, sau cùng trên toàn miền Nam, chúng hoàn toàn thất bại không chiếm được một mảnh đất nào, mà phải bỏ xác tại trận 45,000 quân ; nhưng cả thế giới đều loan tin chúng chiến thắng (tin chiến sự loan đi chúng đă đánh thủng tuyến pḥng thủ của ta, và đă đánh vào cả Thủ Đô Sài G̣n), nếu thật sự tết Mậu Thân chúng thắng, th́ chiến tranh phải chấm dứt từ đó, v́ đó là trận tổng công kích, không phải là trận đánh b́nh thường. Lấy tiếng chiến thắng để phải hy sinh mạng sống 45,000 đồng chí của ḿnh, chỉ có Cộng Sản mới làm được mà thôi! Chúng ta đành chào thua lối đánh giặc kiểu này, trận chiến vừa qua là trận chiến giữa loài thú đội nốt người, với con người chân chính biết lễ nghĩa, nên chúng ta thua là phải, thế kỷ này là thế kỷ chuẩn bị để cho chúng, là những tên buôn dân bán nước vào hỏa ngục. (Xin phép được kể một chuyện vui về tâm lư chiến của ta, TĐ1PBND sau khi hành quân Hạ Lào về được nghĩ một thời gian, sau đó cùng LĐ1ND hành quân giải tỏa Căn Cứ Hỏa Lực Số 5 tại Tân Cảnh, Kontum, nghĩa là sau khi LĐ2ND hành quân giải tỏa Căn Cứ Hỏa Lực Số 6 khoảng một tháng, sau khi chiến thắng dễ dàng tại đây, toàn bộ LĐ1ND được trở về Sài G̣n, một tuần sau chúng tôi lên đường hành quân tại biên giới Việt Miên với LĐ2ND, nhiệm vụ chấm dứt chúng tôi trở về hậu cứ Hoàng Hoa Thám, mỗi đơn vị cấp Tiểu Đoàn đều được các ban văn nghệ tới ca hát một vài đêm tại hậu cứ, nhận được tin này chúng tôi vô cùng thích thú, ít nhất cũng c̣n được cấp trên nghĩ tới, không tủi ḷng chiến sĩ, đoàn văn nghệ trung ương gửi tới không vui sao được, chắc chắn là phải hay và vui rồi... Nhưng chúng tôi hoàn toàn thất vọng, khi tŕnh diễn xong mỗi màn hát hay mỗi chương tŕnh kịch nghệ, bên dưới không một tiếng vỗ tay tán thưởng, tôi ngồi hàng ghế trên thấy mà chán chường, tôi cho gọi Thường Vụ Tiểu Đoàn đến, nói nhỏ với anh là phải đi rỉ tai các thường vụ Pháo Đội là phải đi rỉ tai tất cả mọi quân nhân trong Tiểu Đoàn, phải vỗ tay tán thưởng, sau mỗi bài ca hay vở kịch, nhưng rồi chỉ được một hay hai lần là có, sau đó tiếng vỗ tay tán thưởng không c̣n nữa, v́ tŕnh diễn không hấp dẫn không ai có thể vỗ tay tán thưởng được, (Thường Vụ Tiểu Đoàn sau này là Trung Úy Lương văn Ngữ hiện anh và gia đ́nh đang ở nam Cali) sau khi đoàn văn nghệ ra về tôi cho lệnh Thiếu Tá Đinh Thành Tấn Ban 3 Tiểu Đoàn (hiện anh và gia đ́nh đang ở nam Cali), ngày hôm sau tập họp tất cả quân nhân các cấp trong tiểu đoàn, lúc 12 giờ trưa để nghe nhật lệnh, nhớ mang cuốn nhật lệnh ra. Tôi ra về ḷng không vui khi thấy Chiến Tranh Chính Trị, Tâm Lư không chỉnh, tại sao lại cho đoàn văn nghệ mà lính không nghe nổi, đến ủy lạo đơn vị như vậy? Thật bôi bác... tiên trách kỷ hậu trách nhân, tôi lại tự trách ḿnh tại sao đơn vị của ḿnh lại thiếu lễ độ như vậy? Người ta đến giúp không công cho ḿnh mà lại tiếc tiếng vỗ tay, tôi tự nói một ḿnh... Thôi ngày mai tính, nhưng cũng không sao ngủ yên. Tôi đang ngồi làm việc, Tấn hỏi tôi nhật lệnh về đề tài ǵ để anh viết, các pháo đội đă sẵn sàng tại sân tập họp Tiểu Đoàn. Anh cứ mang cuốn nhật lệnh ra đó, khi nào sẵn sàng anh cho tôi biết. năm phút sau tôi ra chào tiểu đoàn do Thiếu Tá Nguyễn văn Thông Tiểu Đoàn Phó tŕnh diện (sau này anh Thông là Tiểu Đoàn Trưởng TĐ3PBND, hiện anh và gia đ́nh đang ở Illinois), tôi cũng đi làm thủ tục của một Tiểu Đoàn Trưởng là đi duyệt qua hàng quân, năm trăm anh em ai cũng nghiêm chỉnh, thương mến nh́n nhau, mà không nghiêm chỉnh sao được, Nhảy Dù có nghĩa là kỷ luật thép, chúng tôi chiến thắng là do kỷ luật, chúng tôi không làm nhục quân đội là do kỷ luật, không khí thật nặng nề v́ ai cũng biết tôi đang không vui, nên quân phục chỉnh tề như sẵn sàng đi duyệt binh, tôi trở về vị trí của ḿnh, nói những câu khen thưởng trong cuộc hành quân vừa qua, chúng tôi mặc niệm một số anh em chúng tôi đă nằm xuống tại căn cứ Cờ Lau......Như Cố Thiếu Úy Nguyễn văn Nhượng Phụ Tá Ban 3 Tiểu Đoàn, (gục xuống ngay sau lưng tôi) tôi khen ngợi từng khẩu đội (lúc đó tôi thuộc tên tất cả các Khẩu Trưởng), tôi nói rất nhiều, tôi biết lúc này mọi người chỉ muốn được nghĩ trưa, giờ nghĩ trưa hai tiếng ngắn ngửi quá, sau cùng tôi phiền trách việc không vỗ tay cổ vơ cho ban văn nghệ, trung ương phái đến tối hôm qua, tôi nhắc là dù ca sĩ hay, dở cũng phải vỗ tay và hô Bis, bây giờ chúng ta phải thực tập đễ nhớ điều này; tôi nói tiếp, Thiếu Tá tiểu đoàn phó đọc bất cứ nhật lệnh nào ông thích, khi ông đọc xong đến câu nhật lệnh hết, kể như ca sĩ tŕnh diễn xong một bản nhạc, anh em tập vỗ tay tán thưởng và la thật to Bis...Bis, xong Thiếu Tá ban 3 đọc nhật lệnh khác anh em lại tiếp tục vỗ tay và la thật to Bis... Bis... khi nào trong văn pḥng tôi thấy vỗ tay đúng mức và la to Bis... Bis... đúng mức, tôi cho nghĩ trưa, nếu chưa đúng mức th́ cứ việc thực tập, xong tôi hỏi? Tất cả nghe rơ chưa, đồng thanh của năm trăm thanh niên trả lời: - Nghe rơ, vang động cả khu doanh trại thật hào hùng, nhưng nghe như ai oán!! Cứ như vậy hết nhật lệnh này tới nhật lệnh khác, sau mỗi khi nghe nhật lệnh hết, là tiếng hô Bis... Bis và tiếng vỗ tay vang vang, hai vị tiểu đoàn phó và trưởng ban 3, thay phiên nhau đọc nhật lệnh. Đúng 2 giờ chiều tôi cho tan hàng, ai cũng mồ hôi hễ nhăi, mất giấc nghĩ trưa, tiếp tục sinh hoạt hàng ngày, tức là cả tiểu đoàn không được nghĩ trưa, anh nào anh ấy, khát nước và bụng đói, tiếp tục sinh hoạt buổi chiều; sau ba ngày, trung ương lại cử một đoàn văn nghệ khác xuống, trước giờ văn nghệ tŕnh diễn, tôi nghe rơ tiếng Thường Vụ Tiểu Đoàn la hét ngoài sân tiểu đoàn: - Lần này mà không chịu vổ tay, không chịu la Bis... Bis... là tao sẽ phạt thêm một tuần nghe nhật lệnh buổi trưa, nghe rơ không! Nghe rơ! Nhảy Dù Cố Gắng. Tối hôm đó tôi ngồi trên luôn mỉm cười, không phải v́ nghe tiếng la tiếng hét của năm trăm cái miệng như tiếng lệnh vỡ mà cười, tôi nghĩ đoàn văn nghệ này họ sẽ nghĩ bọn này đi rừng nhiều quá, chắc thành người rừng, hay dở cũng là tuyệt vời với họ, nên mới được tán thưởng nhiệt liệt như vậy; không những vậy nhiều anh c̣n biểu lộ tán thưởng rất cuồng nhiệt, họ biết tôi muốn vậy, nhưng chắc chắn tôi biết họ không muốn như vậy, văn nghệ vừa chấm dứt, anh trưởng đoàn xuống nghiêm chỉnh chào tôi và cảm ơn tiểu đoàn đă cho đoàn một món quà tinh thần vô giá, sau đó anh đưa cho tôi số điện thoại, và nói Bất cứ lúc nào tiểu đoàn muốn, không cần trên sắp xếp anh sẽ dẫn đoàn tới ngay, tôi nghĩ thầm (thôi đi cha nội, hành hạ chúng tôi như vậy chưa đủ hay sao?) Tuyệt vời hơn, là cả thế giới chiêm ngưỡng quân đội của Cộng Sản Việt Nam, Quân Đội của Nhân Dân như thần thánh, chiến đấu cho nhân dân, v́ nhân dân, trong khi Quân Đội Nhân Dân, chính những anh em này thẳng tay tàn sát đồng bào vô tội, chỉ v́ chúng nghi ngờ một người tên Quyên hợp tác với Quốc Gia th́ trong làng tất cả những ai không may có tên Quyên, Quyền Quyến... v... v... đều bị tàn sát không nương tay, Hồ chí Minh dậy một câu kinh nhật tụng là giết lầm hơn bỏ sót con cháu bác cứ như vậy thi hành, điển h́nh nhất là hàng ngàn vành khăn sô cho Huế trong dịp Mậu Thân; Nhưng không một công dân nào trên thế giới biết, cho đến ngày hôm nay chúng vẫn c̣n tiếng thơm là quân đội Nhân Dân, c̣n chúng ta vẫn bị lăng mạ thảm thương, đủ thấy tâm lư chiến của hai phe!! Thật đáng nản!! Không tin ư!!! Tôi xin quí vị hăy hỏi bất cứ một công dân Hoa Kỳ nào, mà thời kỳ thập niên 60 và 70 có để ư đến chiến trận tại Việt Nam, rất đơn giản và rơ ràng nhất quí vị hỏi: Ông bà nghĩ ǵ về trận tết Mậu Thân (1968) họ sẽ trả lời vanh vách rằng, Quân Đội Cộng Sản Việt Nam đă chiến thắng, họ chiến thắng mọi nơi, bằng cớ là họ đă chọc thủng pḥng tuyến của Quân Đội Quốc Gia và Quân Đội Đồng Minh, đánh vào Thủ Đô Sài G̣n, đánh vào cả Ṭa Đại Sứ Mỹ, đánh vào các cơ quan đầu năo của chính phủ miền Nam, chiếm đài phát thanh Sài G̣n, chiếm BTTM của quân đội miền Nam Việt Nam, bởi v́ họ là quân đội của nhân dân, c̣n Quân Đội miền Nam hèn nhát không chịu chiến đấu “đau đớn chưa?” h́nh ảnh rơ ràng, họ nh́n thấy mọi nơi trên báo chí trên đài. Ôi thảm năo làm sao!!! Cho đến nay, ngay cả người lănh đạo quốc gia Hoa Kỳ và tổng trưởng Quốc Pḥng vẫn c̣n tin mănh liệt hơn thế, th́ hỏi sao công dân trên quả địa cầu này, lại phải nghĩ khác đi. Một việc so sánh nhỏ bé nữa, là quí vị hỏi cũng những người, mà quí vị vừa hỏi là vụ thảm sát Mỹ Lai, th́ ai cũng rơ, ai cũng cho là man rợ, ai cũng cho là tàn ác; nếu ai đó muốn t́m hiểu thêm đi đến Mỹ Lai, Không phải là dễ đến, v́ Mỹ Lai xa xôi hẻo lánh. Nhưng nếu quí vị hỏi vụ thảm sát Tết Mậu Thân tại Huế, ngay tại Cố Đô của chúng ta, nơi thị thành chứ không hẻo lánh như Mỹ Lai, ai muốn đến lúc nào cũng được, vụ thảm sát này, nó c̣n tàn ác c̣n dă man gấp trăm ngh́n lần, đối với bất cứ một cuộc thảm sát nào trong chiến tranh Việt Nam,(quí vị đă thấy ai trói người bằng cách lấy lưỡi lê chọc thủng bàn tay nạn nhân, rồi dùng kẽm gai xâu từ bàn tay người này sang bàn tay người khác)? Họ trói kiểu đó v́ họ sợ những người vô tội này bỏ trốn. Thưa đó là sản phẩm của con cháu Bác Hồ, con cháu bác đă hành động rất (NHÂN TÍNH), xong đem chôn sống tập thể hàng ngàn người như vậy đó quí vị ạ!!! Th́ không, không một ai biết đến!!! Ôi lỗi này từ đâu vậy hở trời cao đất dầy?... Tôi không hiểu do sức lực nào mà chúng tôi QLVNCH, c̣n chiến đấu rất ư là anh dũng cho tới năm 1975, chúng tôi không nhân dịp này trách cứ một ai, chuyện đă qua, điều quan trọng là chúng ta phải nhận lănh trách nhiệm với đồng bào...Chúng ta đă không làm tṛn phần vụ của từng cá nhân, của từng đơn vị, của từng quân binh chủng; chúng ta đă không bảo vệ cho dân chúng miền Nam, như khi nhập ngũ chúng ta đă hứa... Hy sinh v́ dân tộc trung thành với Tổ Quốc .................... .................... ....... Phải thân dân, bảo vệ dân và giúp đỡ dân Tất cả chỉ là huyền hoặc, chưa một vị chỉ huy nào giám nhận lănh trách nhiệm, nhưng nếu có dịp là đọc diễn văn, nghe nó ai oán làm sao? Nói cho kêu, thét cho vang... Cũng chỉ là ông b́nh vôi của cụ Phan Khôi không hơn không kém!!! Năm 1977 khi một phóng viên hỏi Tướng Westmoreland về Tướng Vơ Nguyên Giáp, tôi không nhớ chi tiết, đại để ông trả lời như sau: "Tướng Vơ Nguyên Giáp là một Tướng tài của Cộng sản Việt Nam, nếu ông chỉ huy quân đội các nước tân tiến (Đồng Minh) th́ chỉ một trận thôi là ông ta phải ra ṭa án quân sự. Các trận đánh mà ông ta thắng toàn bằng phương pháp giết đồng đội của ḿnh (Thí Quân), không có trận nào ông ta thắng bằng thao lược (Mưu Trí) của một vị tướng lănh". Nhưng đoàn quân Mũ Đỏ tại Trị Thiên, màng lưới pḥng thủ chuẩn bị mỗi ngày thêm chu đáo, trên dăy đồi Trần văn Lư, Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng tiên đoán TĐ11ND sẽ bị tấn công nay mai, ông điều động hai đại đội của TĐ3ND do Tiểu Đoàn Phó chỉ huy tăng cường sườn tây cho TĐ11ND, Trong ngày tháp tùng theo phái đoàn quan sát tại chỗ, chúng tôi tới TĐ11ND bằng thiết quân vận dưới cơn pháo, đoàn quân Mũ Đỏ vẫn c̣n bất lợi v́ nguyên sườn phía tây tức dẫy trường sơn vẫn trong tay địch, nên địch quân đặt các đài quan sát bất cứ chỗ nào tại các cao địa, ngay cả ở lưng chừng sườn núi cũng vẫn quan sát được mọi sự di chuyển của ta, thiết quân vận di chuyển tạo ra đám bụi nhỏ bay lên, mỗi khi chúng quan sát được như vậy là chúng liền gọi pháo của chúng can thiệp ngay, cũng may pháo của chúng chưa chính xác cho lắm, hơn nữa ta di chuyển dưới các đường thông thủy, hay bên phía đông hoặc đông nam sườn đồi làm chúng khó quan sát, địch pháo quá nhiều làm cho mọi người cũng có phần lo ngại khi Thiếu Tá Lê văn Mễ bị thương phải di tản v́ đạn pháo,(cái huôn của tiểu đoàn trưởng TĐ11ND trúng đạn pháo) nhưng trong TĐ11ND ngoại trừ các cấp chỉ huy, c̣n lại vẫn được giữ kín tin này, Đ/T Lữ Đoàn Trưởng nhấn mạnh cho các cấp chỉ huy: Gồm cả năm đại đội trưởng trên tuyến đầu là, (địch quân sẽ c̣n pháo mănh liệt hơn, phải coi lại hầm hố cá nhân của thuộc cấp, phải ngụy trang cho tinh khôn và điều quan trọng nữa là địch quân sẽ tấn công tuyến đầu của ta, bằng cấp trung đoàn (thiết đoàn) chiến xa với lực lượng tùng thiết hùng hậu, ít nhất cũng là trung đoàn bộ binh, cho nên phải tiên liệu đường tiến của chiến xa địch, đường tiến quân của bộ binh địch, trong trường hợp tùng thiết cũng như không tùng thiết, tạo các chướng ngại vật để chiến xa cũng như bộ binh địch, phải di chuyển theo ư của chúng ta, phân phối hỏa lực chống chiến xa, tập dượt lại cách đánh chiến xa, giảng giải cho mọi cấp biết yếu điểm của chiến xa, ông kết luận với các cấp chỉ huy chắc như Đinh Đóng Cột là: “chúng ta phải thắng trận này, nếu không các anh và tôi phải TỰ XỬ , đă đội trên đầu chiếc nón mầu ĐỎ chúng ta không được quyền làm hoen ố nó, không được phép làm tủi nhục linh hồn các anh chị em của chúng ta đă hy sinh để tô thắm nó, các anh có nghe rơ không”), nơi họp không xa tuyến đầu của địch, nên tất cả im lặng nh́n nhau rồi cùng nắm tay vững chắc đưa ngang đầu tỏ ḷng cương quyết, mọi người chia tay nhau trong niềm tin chiến thắng, với ánh mắt căm hờn, hận loài giặc hại dân hại nước, tuy không nói nhưng nhủ thầm giữ trọn lời thề son sắt với quê hương, với đơn vị; nếu không thắng trận này thề không trở về nh́n mặt anh em, với ư chí quyết chiến quyết thắng như vậy, chúng ta chỉ c̣n chờ ngày giờ đến, các đơn vị ban ngày không sao lăng tuần thám, nghiên cứu từng tấc đất từng sườn đồi, địa thế nào chiến xa có thể qua; chỉ cần quan sát cách làm việc của các tiểu đội trưởng, các trung đội trưởng, chúng ta hiểu ngay cấp chỉ huy đă chuẩn bị chiến trường chu đáo, địch quân sẽ phải tấn công theo ư của ta, chúng sẽ tiến quân đúng theo những ǵ chúng đă học, thiết giáp phải có xạ trường, chúng ta sẽ tạo đường tiến quân có xạ trường tốt cho chúng, bộ binh phải có địa h́nh, chúng ta sẽ tạo địa h́nh cho chúng, cấp chỉ huy của chúng nếu tinh khôn phải hiểu rằng: Chúng tôi đang đón chúng với tất cả tinh thần quyết chiến, quyết thắng; nên chuẩn bị thật chu đáo, chúng sẽ được tiếp đón thật tưng bừng, thật hùng hậu, từng tấc đất chúng sẽ di chuyển qua, đều được lo dọn dẹp chu đáo, để bắt buộc chúng phải dàn quân và tiến theo ư của các Thiên Thần Sát Cộng. Ngày 14 tháng 5 năm 1972 lúc này Đại Tá Lịch hơi lo ngại v́ Thiếu Tá Mễ bị thương, tuy không nặng nặng lắm nhưng cần phải di tản, mặc dầu Thiếu Tá Nguyễn văn Thành Tiểu Đoàn Phó rất vững vàng trên mọi phương diện, chỉ huy chiến trận cũng như phối hợp hỏa lực, hiện đang tạm thời thay thế Thiếu Tá Mễ , nhưng ông sợ yếu tố tinh thần, nếu như các chiến sĩ Mũ Đỏ thuộc đơn vị Song Kiếm Trấn Ải biết được cấp chỉ huy của họ bị thương, liệu ḷng họ có xao xuyến hay không? Ai cũng tin dị đoan thầm lo ngại tiểu đoàn có huôn cấp chỉ huy toàn bị v́ pháo... Tốt nhất không nên cho phổ biến tin này. Ngay sáng hôm đó TĐ1PBND Thiếu Tá Tấn tŕnh bầy kế hoạch hỏa yểm với BCH lữ đoàn rất tỷ mỷ, rơ từng chi tiết các loại đạn cần dùng cho mỗi mục tiêu, khi có chiến xa địch xuất hiện, hay khi không có chiến xa địch, kinh nghiệm xương máu tại Hạ Lào, Thiếu Tá Tấn cho biết khi yểm trợ tái chiếm đồi 31, nơi đặt BCH của LĐ3ND tại chiến trường Hạ Lào tức hành quân Lam Sơn 719 trung tâm phối hợp hỏa lực của TĐ1PBND là đơn vị duy nhất điều động hỏa lực yểm trợ, trong vùng Hạ Lào, khi đồi 31 không do ta làm chủ nữa, sáng ngày 28 tháng 2 năm 1971 cánh quân của Thiếu Tá Trần Hữu Phú ( có bài viết về Hạ Lào nói rằng đây là cánh quân của TĐ9ND như vậy là sai hoàn toàn, có lẽ theo suy luận, v́ sau trận Hạ Lào Thiếu Tá Trần Hữu Phú là tiểu đoàn trưởng TĐ9ND) Thiếu Tá Trần Hữu Phú đang từ pḥng 2 SĐND được điều động thay thế Thiếu Tá Đào Thiện Tuyển chức vụ Tiểu Đoàn Phó TĐ8ND, tại vùng tập trung Lao Bảo trong đêm chuẩn bị vào Hạ Lào, một phi vụ Skypot của Hoa Kỳ đánh lầm vào BCH/ TĐ8ND làm Thiếu Tá Đào Thiện Tuyển bị trọng thương, khi địch tràn ngập căn cứ 31 bằng chiến xa và bộ binh, cũng với cách điều quân cố hữu của Vơ Nguyên Giáp là dùng biển người uy hiếp căn cứ này. Hai đại đội TĐ8ND do Tiểu Đoàn Phó TĐ8ND cùng một Thiết Đoàn chiến xa tiến lên đồi 31 để trợ lực cùng đơn vị thuộc LĐ3ND, cách đồi chừng 2 hay 3 cây số phải dừng lại bởi một Trung Đoàn địch chận đánh, tiếp theo từ đồi 31 năm chiến xa địch tiến ra với tùng thiết rất đông, trông như địch từ doanh trại của ḿnh tiến ra, từ căn cứ hỏa lực A Lưới, Trung Úy Nguyễn Cẩn Ngọc, sau này là Thiếu Tá Tiểu Đoàn Phó TĐ4PBND hiện đang ở Houston, Texas sĩ quan trong BCH/TĐ1PBND đă dùng viễn kính lưỡng mục quan sát rất rơ, chiến trận giữa cánh quân của TĐ8ND tùng thiết cho Thiết Đoàn chiến xa của ta, đă đụng độ với Trung Đoàn Địch; rồi cũng thấy rất rơ 5 chiến xa địch từ căn cứ 31 tiến ra, cùng đoàn tùng thiết của chúng, trông như năm con cua từ từ ḅ ra và có một đàn kiến đen bu chung quanh (từ căn cứ A Lưới đến Căn Cứ 31 khoảng cách chừng 8 cây số đường chim bay), BCH/TĐ1PBND quyết định phải đánh tan đàn kiến này, có như vậy mới cô lập được Thiết Giáp địch, nên TĐ1PBND đă điều động 2 pháo đội 105 ly và 2 pháo đội 155 ly, tạm thời mỗi pháo đội chỉ để lại một trung đội yểm trợ trực tiếp, cho cánh quân TĐ8ND và thiết đoàn, v́ những đơn vị này đă có yếu tố điều chỉnh, c̣n dùng tất cả hỏa lực c̣n lại của ḿnh, để tiêu diệt đoàn quân tùng thiết và chiến xa địch, quyết định thi hành tác xạ ngay lập tức, Tr/U Ngọc đă điều chỉnh các loạt đạn trúng ngay đoàn chiến xa địch, khi bắn hiệu quả dùng đạn nổ với đầu nổ CVT, xen lẫn đạn lân tinh (white phosphorus) bắn vào đoàn chiến xa có tùng thiết này, v́ khi thuyết tŕnh hành quân BTL/QĐ1 cho biết chiến xa T54 của địch có khả năng mạnh hơn chiến xa của ta, Trung Tá Thiết Đoàn Trưởng rất ngại phải chạm trán với chiến xa địch, nên đă yêu cầu Pháo Binh phải chặn ngay chiến xa của địch lại, và TĐ1PBND đă làm được việc đó, không một chiến xa nào của địch giám xuất hiện nữa bốn pháo đội, mỗi Pháo Đội mới bắn chừng 10 loạt đạn, trộn lẫn như trên đă nói, th́ ba chiến xa địch phát hỏa ngay tức thời, hai chiếc không điều khiển loạng quạng đâm xuống sườn đồi, đoàn tùng thiết của địch v́ đang di chuyển không có hầm hố, nên hầu như bị tiêu diệt hoàn toàn, sức tàn sát của đạn nổ dùng với đầu nổ CVT, vô cùng hữu hiệu, đối với quân di chuyển ngoài trời, lúc đó TĐ1PBND cho lệnh bắn CVT là có ư tiêu diệt đoàn quân tùng thiết, hoàn toàn không biết tại sao chiến xa địch bốc cháy ngay lập tức, Thiếu Tá Tấn tŕnh bầy: “Nếu chiến xa dịch bị cháy v́ đạn lân tinh th́ cũng phải có thời gian ít phút, không thể nào bị cháy ngay như vậy, chúng tôi nghĩ rằng do đạn CVT, nhưng khổ nỗi không có ai lại đó để quan sát, những chiến xa của địch bị cháy là do nguyên nhân nào? khởi điểm cháy từ đâu?Cho nên lần này ban 3 TĐ1PBND muốn chứng minh, là đạn nổ với đầu nổ CVT có khả năng tiêu diệt chiến xa địch. Địch quân đă mắc phải lỗi lầm rất lớn, là di chuyển ban ngày để Quan Sát Viên Pháo Binh thấy, từ khi chúng tôi mang danh là Pháo Thủ, bất cứ mục tiêu nào, nếu trong tầm Pháo Đội, mà chúng tôi quan sát rơ mục tiêu, th́ mục tiêu đó phải bị thiệt hại hay bị tiêu diệt ngay lập tức, mà chúng tôi nghĩ đây là sự việc rất b́nh thường, không có ǵ là xuất sắc, v́ bất cứ một sĩ quan nào đă học xong phần căn bản pháo binh, cũng phải làm được những việc như chúng tôi đă làm, nó dễ dàng c̣n hơn trai gái đă ưng thuận nhau sau đó 4 pháo đội mới quay về yểm trợ cho cánh quân của TĐ8ND, khi chấm dứt hành quân Hạ Lào, ban ba TĐ1PBND có làm tờ tŕnh này lên BCHPB/QLVNCH và Pḥng 3 BTTM/QLVNCH theo đúng thủ tục hệ thống quân giai về kết quả không ngờ này, nhưng không ai tin như vậy cả, cho rằng đó là do không quân đánh, hay một đơn vị nào đó đánh, Pháo Binh muốn hạ chiến xa phải dùng đạn chống chiến xa lời phán ra như vậy cũng đúng thôi, đạn nổ không làm chiến xa địch hư hại được, sách vở nói như vậy mà, nếu như vậy đâu cần kinh nghiệm chiến trường nữa! ! ! C̣n đạn lân tinh có thể làm chiến xa cháy, nhưng không hữu hiệu nhiều như vậy, không nhanh như vậy, nếu đạn White Phosphorus làm cháy chiến xa th́ cũng ít nhất là năm phút sau mới cháy được; do không quân ư, lúc đó trên bầu trời Hạ Lào không có bất cứ loại máy bay nào xuất hiện, không có bất cứ một hỏa lực nào tấn công chiến xa địch ngoài pháo binh, không lẽ chiến xa của địch bị ma vật, mà cấp trên không tin cũng phải, tờ tŕnh không nói rơ tại sao chiến xa địch cháy, sự thực chúng tôi có ai biết đâu mà tŕnh, chỉ là quan sát sao nói vậy, ước mơ của chúng tôi lúc làm báo cáo, là hy vọng cấp trên có những vị có một kinh nghiệm nào đó, t́m được nguồn gốc là tại sao chiến xa địch bị cháy, lư do nữa theo nhiều người nghĩ, trên cũng khó tin cho được, v́ năm 1971 tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh Nhảy Dù cũng vẫn là Tiểu Đoàn Trưởng Pháo Binh non nớt nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, cho nên mọi người đều cho rằng ngựa non háu đá, ước mong của TĐ1PBND là phổ biến kinh nghiệm chiến trường, thấy sao báo cáo vậy, để tất cả chúng ta QLVNCH bớt đổ máu, nhưng ước mơ này bị dập tắt, không một làn khói mờ để lại, dầu ǵ chăng nữa với kinh nghiệm tại chiến trường, TĐ1PBND vẫn tin chắc là đạn nổ với đầu nổ CVT, có một sức nào đó cho nên đă tiêu diệt chiến xa địch, trong lệnh tác xạ chỉ cho bắn, mỗi pháo đội có 4 trái đạn white phosphorus mà thôi, xử dụng loại đạn nổ với đầu nổ CVT nhiều gấp bội, trên bàn nghiên cứu có h́nh chiến xa địch do pḥng II BTTM phổ biến, không có chú thích là thùng chứa nhiên liệu của chiến xa địch tại đâu? (sau chiến thắng của TĐ11ND. Ngày14 rạng ngày 15 tháng 5 năm 1972; Chính Sĩ Quan của TĐ1PBND leo lên chiến xa bị cháy do đạn Pháo Binh, c̣n đang nóng hổi, với mục đích để t́m nguyên do chiến xa địch bị cháy, lư do muốn biết sự thực như vậy, nên mới kiếm ra được đáp số đứng đắn nhất, nhờ vậy ban 3 TĐ1PBND lại báo cáo nữa, nhưng lần này tỷ mỷ hơn có nguyên do tại sao chiến xa địch cháy, sau đó mới có văn thư của BTTM phổ biến là đạn nổ đầu nổ CVT của PB có thể chống chiến xa v́ thùng xăng của các chiến xa địch thiết trí trên nóc xe, mảnh đạn CVT chém trúng thùng xăng là phát hỏa ngay, nguyên do như sau: - Thứ Nhất v́ sức nóng của mảnh đạn khi chém trúng thùng xăng, có thể làm xăng gặp nhiệt do mảnh đạn phát ra mà phát hỏa, rất nhiều nhà tranh, hay cỏ khô trong rừng bị pháo binh đốt cháy bởi đạn nổ ; - Thứ Hai sức ma sát của mảnh đạn khi chém vào vỏ thùng xăng có thể xẹt lửa bén vào xăng làm phát hỏa; - Thứ Ba mảnh đạn chém vào thùng xăng, làm xăng chảy xuống máy xe đang chạy có sức nóng làm xăng phát hỏa; hơn nữa thùng xăng lại có diện tích lớn, rất dể trúng mảnh đạn, mỗi trái đạn có hàng trăm mảnh chém xuống, mỗi lần bắn như vậy, đều bắn hàng trăm trái đạn, thùng xăng không có sắt dầy che chở, bất cứ mảnh đạn lớn nhỏ đều có khả năng làm thủng thùng xăng, bài này viết lại cho vui, v́ chúng ta đâu c̣n đánh ai nữa đâu? Trong huấn lệnh cũng không có tưởng thưởng vấn đề này. Nhất là không c̣n tranh giành ảnh hưởng với ai cả, may ra con cháu đón nhận, hy vọng sẽ được tha thứ tội ngông cuồng này?!? Áp dụng cho trận chiến này, khi phát hiện ra địch quân có chiến xa hay không TĐ1PBND cũng sẽ điều động 4 pháo đội 105 ly (sau này là 5 pháo đội) và 1 pháo đội 155 ly bắn đạn nổ với đầu nổ CVT, để ngăn chặn và tiêu diệt địch quân đang di chuyển với nhiệm vụ tùng thiết, v́ đạn nổ với đầu nổ CVT sẽ vô cùng hữu hiệu đối với địch quân đang di chuyển, hay địch quân có hầm mà hầm không có nắp an toàn; Nếu là mục tiêu có chiến xa, th́ đạn nổ với đấu nổ CVT sẽ làm cho chiến xa địch không c̣n quan sát xa được, v́ tất cả chiến xa phải đậy nắp lại để tránh bị sát hại, quyết định bắn đầu nổ CVT, đồng thời kiểm nhận hiệu quả của đầu nổ CVT, đối với chiến xa địch hữu hiệu như thế nào? Cũng may là v́ Lữ Đoàn hoàn toàn đồng ư với cách xử dụng hỏa lực của trưởng ban 3 TĐ1PBND. Khi vào vùng trách nhiệm, bộ chỉ huy Lữ Đoàn điều động hai cây hỏa tiễn TOW, đây là loại hỏa tiễn chống chiến xa mới nhất và hữu hiệu nhất, của quân đội Hoa Kỳ thời bấy giờ, v́ khai hỏa là phải trúng chiến xa địch, trái hỏa tiễn bắn ra có điều khiển để phải trứng mục tiêu, dù mục tiêu có phát nhiệt hay không, cơ xưởng sản xuất nghiên cứu và sáng chế ra đầu đạn của hỏa tiễn đi theo điều khiễn của ống kính nhắm, không những vậy ống kính hồng ngoại tuyến có thể nh́n ban đêm dễ dàng, ống kính nhằm vào đâu là đầu đạn đi theo vào đó, chiến tranh Iraq loại hỏa tiễn này vẫn c̣n dùng, cùng một Chi Đội chiến xa M41 và hai Chi Đội Thiết Vận Xa tăng cường cho TĐ11ND, như vậy hỏa lực của tuyến đầu rất dồi dào, phần chuẩn bị chiến trường cũng tạm gọi là chu đáo. Ngay sau khi tŕnh bầy kế hoạch hỏa yểm cho bộ chỉ huy Lữ Đoàn, TĐ1PBND đề nghị xin thêm một pháo đội của TĐ2PBND đang tại vùng tập trung vào vùng, để tăng cường hỏa lực cho LĐ2ND, được trên chấp thuận ngay, lúc đó LĐ1ND cũng như LĐ3ND chưa nhập cuộc, v́ vậy chiều ngày 14 tháng 5 năm 1972 TĐ1PBND lại được tăng cường thêm một Pháo Đội nữa, như vậy nếu địch quân dại dột tấn công TĐ11ND, chúng sẽ phải nhận ngay phút đầu tiên là 30 trái đạn 105 ly và 6 trái đạn 155 ly dáng xuống đầu chúng, quả là một trận địa pháo vô cùng mănh liệt, ít khi xẩy ra trên chiến trường miền Nam, (những tác xạ này, đạn khói white phosphorus ban 3 TĐ1PBND không dùng, v́ tin rằng không hữu hiệu lại c̣n làm mất yếu tố nhanh chóng, chính xác, đạn khói phải bắn với yếu tố khác, khi cùng bắn chung với dạn nổ làm cho các pháo thủ dễ lầm lẫn) tất cả mục tiêu tiên liệu, v́ chúng tôi có thời gian, nên đều đă điều chỉnh tác xạ trước, không thể nào địch quân có thể ngóc đầu lên được, khó có thể có sơ hở được, v́ chúng tôi chuẩn bị rất kỹ càng, địch quân phải tiến vào trận địa theo ư của chúng ta, phối hợp nhịp nhàng với nhau từ trước khi chiến sự xẩy ra, cho nên khi chiến sự xẩy ra nhiệm vụ ai người đó làm, không c̣n phải xin lệnh hay hỏi ư kiến mất th́ giờ vô ích, mỗi Tiền Sát Viên Pháo Binh có một Pháo Đội yểm trợ trực tiếp, nói cho rơ ràng hơn mỗi đại đội Nhảy Dù có một pháo đội yểm trợ trực tiếp, cho nên khi các TSV/PB thấy địch là có đạn Pháo Binh đến ngay, không phải đợi chờ như những chiến trường khác, Ngay cả tại Hạ Lào cũng không được dồi dào như vậy, tại chiến trường Hạ Lào bốn TSV/PB và một Sĩ Quan Liên Lạc cũng chỉ có một pháo đội yểm trợ trực tiếp mà thôi. Địch quân dù có nội tuyến cũng không hiểu được cách điều động hỏa lực này, cấp chỉ huy của chúng không biết người biết ta, chỉ biết đánh biển người, nên chúng gặp ngay biển Hỏa Lực v́ vậy chúng phải thất bại ê chề là chuyện rất b́nh thường. Tại Triều Tiên năm 1952 khi Trung Cộng dùng biển người đánh với quân đội Đồng Minh do Hoa Kỳ chỉ huy, danh tướng Mc Arthur đă tuyên bố một câu để đời nếu địch quân dùng biển người tôi sẽ dùng biển lửa để thiêu sống chúng quả vậy khi Trung Cộng dùng hàng quân đoàn xung phong để tiêu diệt quân Đồng Minh liền gặp ngay những dàn súng phóng hỏa, tiêu diệt trọn bộ, chết thật thê thảm, Cộng Sản Việt Nam là đệ tử của Mao nên nhất nhất theo đúng chiến thuật của Mao, đầu óc của chúng không suy luận được, nên chỉ biết áp dụng chiến thuật của quan thầy mà thôi. Tối ngày 14 rạng ngày 15 tháng 5 năm 1972 (tức nhằm ngày mồng 2 rạng ngày mồng 3 tháng 4 năm nhâm Tư) địch quân chọn những ngày đầu tháng cho nên trời tối có lợi cho cuộc chuyển quân của chúng, ta khó quan sát thấy địch, quan thầy (Nga-Hoa) dậy như vậy, chúng có biết đâu, mỗi t́nh huống một khác, chính trời tối cũng khó khăn di chuyển, nếu bật đèn xe th́ chỉ có nước sớm trở thành âm binh về gác xác Bác nơi âm ty, chính trời tối lại có lợi cho ta, địch không thông thuộc địa thế, c̣n ta th́ từng Mũ Đỏ thông thuộc địa thế đóng quân của ḿnh, đó chính là vị trí của ta chọn lựa. Nhờ tai mắt của ta bên kia bờ sông Mỹ Chánh, quan sát được địch chuyển quân, ta kết luận có nhiều dấu hiệu địch quân sẽ tấn công TĐ11ND; lư do nữa là địch bị thiệt hại quá nhiều, do đoàn quân Mũ Đỏ gây cho chúng liên tục những ngày qua, chúng phải trả thù, chúng phải lập chiến công, bắt buộc chúng phải tấn công để lấy lại uy thế, cho dù cấp dưới của địch c̣n hoang mang, cũng phải thi hành lệnh một cách mù quáng. C̣n ta nắm vững t́nh h́nh, cho nên mọi người đều thở ra nhẹ nhơm, tất cả đă sẵn sàng trong thế chờ địch, địch như con thú hoang đang tiến vào cạm bẫy của ta; ai có nhiệm vụ th́ thức, ai không có nhiệm vụ vẫn có thể ngủ, như những ngày khác. Nhưng hôm nay ai cũng nôn nóng khó có thể ngủ được, ban 3 TĐ1PBND cho lệnh kỹ càng 5 Pháo Đội Trưởng 105 ly và một Pháo Đội Trưởng 155 ly, rơ ư định điều động hỏa lực của trung tâm phối hợp hỏa lực, chúng tôi đang muốn t́m xem tại sao đạn nổ với đầu nổ CVT (Control Variable Time) lại tiêu diệt được chiến xa địch, chúng tôi rất vui mừng v́ các pháo đội trưởng đều một ḷng, muốn t́m nguyên do đạn nổ với đầu nổ CVT lại có thể tiêu diệt chiến xa, lúc này ai cũng ao ước cho địch tấn công, nếu không may địch không tấn công th́ đúng công của chúng tôi chuẩn bị thành công dă tràng, chúng tôi chỉ ao ước sao, thấy cho được chiến xa địch bị cháy, v́ bất cứ nguyên do nào, để t́m hiểu và học hỏi, chúng tôi có được xem h́nh chiến xa địch, nhưng không biết là thùng chứa nhiên liệu của chiến xa địch lại nằm ngay trên nóc xe, v́ h́nh chỉ phổ biến cho có lệ, ngày đó h́nh phổ biến bằng quay ronéo nên trông nó thê thảm lắm, không như h́nh của computer ngày nay đâu, không một chú thích về nơi đặt thùng xăng của chiến xa, nên chúng tôi vẫn tin tưởng rằng chiến xa của địch được thiết trí thùng xăng cũng nằm ở vị trí ngang hông như chiến xa của ta, nếu chúng tôi biết thùng chứa nhiên liệu nằm trên nóc xe, chúng tôi đă có kết luận nguyên do tại sao chiến xa của địch bị cháy tại Hạ Lào; khi đạn nổ với đầu nổ CVT bắn đi, từ đầu nổ sẽ phát ra chùm luồng sóng điện, khi luồng sóng điện này gặp bất cứ chướng ngại vật nào, dù là lá cây, ngay cả mưa nặng hột hay sương mù dầy đặc, máy bay, đàn chim...Nói chung bất cứ vật ǵ mà luồng sóng điện của đầu nổ chạm phải, lập tức có tín hiệu dội ngược trở lại và liền kích viên đạn nổ cách chướng ngại vật là 20 thước (mét) viên đạn nổ ra, theo sức phóng tới của viên đạn, nên tất cả mảnh đạn không tạt ngang, mà mảnh đạn lại phóng tới chụp vào mục tiêu, như một cái nơm chụp bắt cá của ngư phủ vậy, cho nên rất hiệu quả, v́ một viên đạn có hàng trăm mảnh đạn đánh vào một vùng thâu nhỏ, chừng một ṿng tṛn 50 thước đường bán kính, hàng trăm viên đạn pháo binh bắn cùng lúc th́ hiệu quả vô lường, mảnh đạn pháo binh khi nổ ra lại rất nóng đễ gây phát hỏa, không những vậy nếu chém vào sắt th́ sẹt ra một tia lửa ngay, nếu chém trúng thùng nhiên liệu, nhiên liệu chảy xuống máy chiến xa đang nóng cũng phát hỏa, (kỹ thuật tác xạ pháo binh nghiêm cấm không được bắn đạn nổ với đầu nổ CVT khi trời mưa, trời có sương mù, qua mức chắn, hay khi bắn cho quan sát viên phi cơ) cho nên một máy bay dân sự rớt ở biển Đại Tây Dương gần Nữu Ước, cả máy bay không ai sống sót không kiếm ra mảnh máy bay, hay hộp đen của máy bay, người ta nghi ngờ do hỏa tiễn của Hải Quân Hoa Kỳ thực tập làm hại máy bay này, cũng không phải là điều không đáng nói tới. Trở lại mặt trận bờ nam gịng sông Mỹ Chánh, hay mặt trận trên dăy đồi Trần văn Lư, một toán viễn thám của ĐĐ2TSND cho biết có đoàn chiến xa địch, di chuyển về hướng nam c̣n cách sông Mỹ Chánh khoảng 6 Km, v́ toán viễn thám ở cách xa đường di chuyển của chiến xa địch, cho nên toán viễn thám không xác định được vị trí của chiến xa địch, cũng như không rơ loại chiến xa, bao nhiêu chiến xa, toán viễn thám nằm trên đất của địch, một toán nhỏ so với lực lượng địch nên không giám di chuyển nhiều; lúc đó là 2:00 giờ sáng ngày 15 tháng 5 năm 1972, nhận được tin chúng tôi cho lệnh vùi dập chúng ngay, nhưng mục tiêu này chỉ trong tầm 2 pháo đội 105 và pháo đội 155, sau khi bắn xong địch quân im lặng, sau đó chúng lại tiếp tục di chuyển, pháo của chúng đáp lễ các pháo đội của ta nên mọi việc đă rơ, chúng tôi đang gây khó khăn cho chúng nên chúng trả đũa, chúng tôi vẫn tiếp tục bắn chặn theo đường chúng có thể di chuyển, nhưng không ghi nhận được kết quả, khi một đại đội của TĐ3ND nghe thấy chiến xa địch di chuyển rất đông bên kia bờ sông, cũng không xác định vị trí địch v́ chỉ nghe tiếng nổ của động cơ mà đoán chừng thôi; lúc 4:00 giờ sáng, lúc này đa số các cấp chỉ huy c̣n trên hệ thống chỉ huy, ngay lập tức 6 pháo đội khai hỏa, ba trăm cái nơm sắt thép chụp xuống mục tiêu, sau đó chiến trường hoàn toàn im lặng, chiến xa địch im hơi nhưng pháo địch phản ứng dữ dội hơn trước, ba pháo đội gần tuyến đầu bị ảnh hưởng pháo của địch nhiều nhất, mọi người đều cảm nhận thấy trận giặc sắp khai màn, chắc chắn có chiến xa tham dự, sẽ trong đêm nay thôi, tất cả anh em trên tuyến đầu, đều nô nức đợi chờ địch đến tấn công, cho khỏi bơ công chuẩn bị chiến trường lâu nay, không có dịp này khó có dịp may khác trả thù cho Charlie được, mọi người đều tỉnh táo, các Đại Đội trưởng kiểm soát lại tuyến pḥng thủ lần chót cho an tâm hơn, nhắc nhở lại các ổ chiến đấu khi có chiến xa xuất hiện, chỉ khai hỏa khi chắc chắn chiến xa địch bị tiêu diệt, nhắc lại cho từng quân nhân biết tầm nh́n của chiến xa rất hạn chế, chúng chỉ thấy ta khi ta khai hỏa không trúng chiến xa địch, tất cả anh em Mũ Đỏ các cấp, trên tuyến đầu đă được huấn luyện nhuần nhuyễn, ai cũng đều nắm vững kỹ thuật tiêu diệt chiến xa địch, v́ vậy vấn đề huấn luyện kỹ thuật tác chiến, phải chú trọng đặc biệt cho từng địa thế, từng trận đánh, phải tiên liệu t́nh h́nh trước để các cấp không ngỡ ngàng khi gặp đối phương, nhất là yếu tố tinh thần, cấp chỉ huy phải dũng cảm coi thường địch, quyết chiến là yếu tố chính quyết định chiến trường, anh em MŨ Đỏ ai ai cũng đều nhất quyết khi đă khai hỏa là chiến xa phải cháy, ai cũng ao ước được thử sức với chiến xa một lần cho biết, v́ đa số anh em chưa một lần chạm trán với chiến xa địch, khi thấy tinh thần của anh em Mũ Đỏ như vậy, anh em Thiết Giáp cũng bừng bừng khí thế không sợ chiến xa T54 trên chân, hơn nữa các chiến xa của ta trong thế pḥng thủ nên đều được ngụy trang và có ụ đất bao bọc kỹ càng . Lúc 4:30 giờ sáng một đại đội khác của TĐ3ND lại báo cáo: Nghe thấy tiếng chiến xa địch sát bờ sông, xin tác xạ pháo binh, không bỏ lỡ một cơ hội nào cho dù không chắc ăn, tức th́ ba trăm nơm sắt thép lại chụp xuống đầu địch, lần này địch trả đũa dữ dội, các pháo đội và tuyến đầu bị pháo dồn dập thêm nhiều vị trí pháo địch từ nhiều hướng mới, như vậy là chạm nọc rồi (chúng tôi tự nghĩ như vậy), cho nên ngay lập tức chúng tôi cho chụp thêm hàng trăm cái nơm sắt xuống, quả nhiên một chiến xa địch bốc cháy ngay bên bờ bắc sông Mỹ Chánh, chúng tôi mừng vô hạn, chúng tôi tin chắc những điều sơ đoán dù non nớt của ḿnh đă trúng, lúc này chúng tôi tin tưởng rằng (đạn nổ với đầu nổ CVT tiêu diệt được chiến xa địch, nhưng vẫn chưa có kết luận vững chắc, v́ câu hỏi tại sao chiến xa địch bốc cháy? Câu hỏi này làm chúng tôi nhức nhối cả hơn một năm nay) Tiền sát viên pháo binh đi với đại đội TĐ3ND lại báo cáo thấy nhiều tiếng chiến xa, chúng tôi ngại ǵ mà không bắn thêm, v́ trời c̣n tối TSV/PB chỉ điều chỉnh đạn theo ước lượng khi nghe đạn nổ cũng như khi nghe tiếng chiến xa, cho nên không có kết quả trông thấy nữa, cánh quân của TĐ11ND vô cùng nao nức khi nghe tin chiến xa địch bốc cháy, v́ họ không có dịp thi tài, nếu chiến thắng do TĐ3ND th́ TĐ11ND cũng mừng, nhưng không vui bằng chính TĐ11ND rửa hận, nên cánh quân TĐ11ND đang háo hức trông chờ sự xuất hiện của chiến xa địch, lúc này là lúc mà sự quyết thắng sẽ thực hiện dễ dàng, v́ ḷng quân đang nung nấu chí phục thù, cho cánh chim đầu đàn không may gẫy cánh. Mệt quá! mặc dầu chúng tôi uống Cà Phê Phin đến no bụng, điếu thuốc lá lúc nào cũng trên tay, vậy mà ngủ thiếp đi lúc nào không hay, tôi thấy ḿnh đang du dương nghe Thái Thanh ca T́nh Hoài Hương, tiếng vỗ tay vang dội, Jomarcel đang đôi điều cảm ơn; tôi đang bắt tay Nhật Trường, rồi Như Thủy cố kéo dài hơi Thương ai về ngơ tối Đường không có ánh trăng Đang say sưa trong giấc mộng đẹp; Phú trực đài trung ương tác xạ lay nhẹ tôi dậy, anh cho biết Thanh Hà 101 báo cáo quan sát thấy chiến xa xuất hiện, tôi bốc máy liên lạc trực tiếp với Sĩ Quan Tiền Sát đi với Đại Đội 111ND, Thiếu Úy Thức chỉ danh của anh là Thanh Hà 101, giọng Huế thật nhẹ nhàng, b́nh thản Thức cho biết Trung Úy Đinh viết Trinh Đại Đội Trưởng đại đội111 dùng kính hồng ngoại tuyến thấy rơ ánh đèn của nhiều chiến xa, các chiến xa này đă sang sông và chuẩn bị tấn công vào tuyến của Đại Đội 111 Nhảy Dù, ngay tại tác xạ tiên liệu C308 đă điều chỉnh cả ba pháo đội, mắt thường chưa thấy v́ trời c̣n tối. Sau khi nắm vững t́nh h́nh Thiếu Tá Tấn lập tức cho lệnh tác xạ TOT ngay trên điểm tiên liệu của ĐĐ111ND mà Trung Tâm Phối Hợp Hỏa Lực chấp thuận những ngày trước và đă được Sĩ Quan Tiền Sát Viên Thanh Hà101 điều chỉnh bằng ba pháo đội của TĐ1PBND, đây là tác xạ gần quân bạn cho nên tác xạ này chỉ thi hành bằng ba pháo đội đă điều chỉnh rồi mà thôi, lệnh của Trung Tâm Phối Hợp Hỏa Lực (TTPHHL) do Thiếu Tá Tấn Truyền đi. - Hồng Hà, Hắc Hà, Thanh Hà đây Bạch Hà (Bạch Hà chỉ danh TĐ1PBND) - Bạch Hà đây Hồng Hà (Hồng Hà chỉ danh PĐA1ND, v́ dấu chỉ độ giạt mầu đỏ) - Bạch Hà đây Hắc Hà (Hắc Hà chỉ danh PĐB1ND, v́ dấu chỉ độ giạt mầu đen) - Bạch Hà đây Thanh Hà (Thanh Hà Chỉ danh PĐC1ND, v́ dấu chỉ độ giạt mầu xanh, bởi vậy mỗi khi nghe chỉ danh của TSV, biết ngay TSV đó thuộc Pháo Đội nào) Xin tác xạ Mục Tiêu C308, tôi lập lại mục tiêu C308, 20 tràng, đầu nổ CVT, TOT theo lệnh tôi c̣n 8 phút nữa. (TOT= Time on target, có nghĩa là các pháo đội phải tính sao, khi TTPHHL đếm c̣n Zero tất cả các pháo đội thi hành tác xạ này phải có lọat đạn đầu tiên nổ trên mục tiêu cùng một lúc, đây là cách bắn làm cho địch quân phải kinh hoàng, quân đội của cả khối tự do đều đă làm và hiệu quả vô cùng. - Hồng Hà Nhận Rơ - Hắc Hà Nhận Rơ - Thanh Hà Nhận Rơ Sau đó hệ thống tác xạ hoàn toàn im lặng, - Đây Bạch Hà TOT c̣n ba phút, c̣n hai phút, c̣n một phút, c̣n 57 giây, 55, 50... 1, zero. Khi nghe được Zero tức là cùng một lúc ba trăm sáu mươi chiếc nơm sắt thay nhau chụp xuống, con cháu của Bác và Đảng lớp chầu diên vương, lớp chạy tán loạn không c̣n ai chỉ huy ai nữa, giống như một pass B52 không tan hàng sao được, đồng thời thêm một chiến xa bốc cháy, chính tác xạ TOT này do Đại Đội Trưởng 111 Nhảy Dù, Trung Úy Đinh Viết Trinh đă tiên liệu, tác xạ này làm hai chiến xa đi lạc bầy luôn và bộ binh tùng thiết hoàn toàn tan hàng không c̣n phối hợp với nhau được nữa, sau đó lệnh của TTPHHL cho các TSV liên lạc trực tiếp với pháo đội đă ấn định yểm trợ trực tiếp cho ḿnh, ba pháo đội và ba tiền sát viên phải bẻ cổ sang tần số tác xạ đă ấn định, để cho hệ thống tác xạ bớt đi rối loạn v́ có tới sáu đơn xin tác xạ cùng lúc, đài trung ương tác xạ có sẵn hai hệ thống tác xạ, để điều động hỏa lực, v́ nhu cầu cần hỏa lực mạnh, chẳng hạn như trước mặt ĐĐ111ND trung tâm phối hợp hỏa lực vẫn điều khiển tác xạ TOT cả 6 pháo đội vào mục tiêu này, mấy ngày nay trên phương diện hỏa lực, chúng tôi hoàn toàn tự lực, không có một nguồn hỏa lực nào từ phía Hoa Kỳ cung cấp; dù không quan sát được rơ ràng, nhưng chắc chắn địch phải vào các tác xạ tiên liệu của ta, các lơm sắt không ngần ngại chụp xuống ngay, chính nhờ vậy mà trên một tuyến dài khoảng hai cây số đội h́nh Thiết Giáp- Bộ Binh của chúng bị tan hoang, bộ binh hoàn toàn bị tan hàng, tuy không bị tiêu diệt, nhưng đội h́nh chiến đấu không c̣n nữa, thiết giáp không có bộ binh tùng thiết , bộ đội trên thiết giáp địch lại không giám mở nắp thiết giáp, v́ các mảnh đạn do đầu nổ CVT điều khiển chụp xuống như mưa rào, bất cứ một sinh vật nào trong vùng ảnh hưởng của các tác xạ của chúng ta, đều phải trúng mảnh đạn, không khác ǵ như địch quân đi dưới cơn mưa rào vậy, tất cả đều bị ướt, tất cả nắp trên pháo tháp đậy xuống tránh mưa, nên lúc này thiết giáp địch không khác ǵ người mù, đi ṃ trong thành phố lạ, khối sắt khổng lồ di chuyển không theo một hướng nào cả, trời tối không có người hướng dẫn khai hỏa lung tung, không biết đâu là hàng ngũ của các đồng chí và đâu là tuyến pḥng thủ của các Thiên Thần Sát Cộng; có chỗ trong lúc thiết giáp của chúng đang lên dốc, chúng mất tinh thần khai hỏa bừa băi, nên súng ngước lên trời, các loạt đạn đại liên nổ ḍn dă, bay bổng lên trời trông thật đẹp mắt, những con rắn lửa vắt chéo nhau qua lại, chính nhờ vậy anh em tân binh, dù là lần đầu tiên thấy chiến xa địch, nhưng lại thấy chiến trận không có ǵ là đáng ngại cả, nên rất b́nh tĩnh dùng M72 bắn cháy chiến xa địch, tự cảm thấy trận mạc thật không khác ǵ tṛ chơi hú tim; không liên lạc được với quân tùng thiết, nên thiết giáp địch cán chết cả bạn, di chuyển lung tung không định hướng, không biết đâu là mục tiêu, cách duy nhất lấy lại tinh thần là khai hỏa bừa băi, để rồi làm bia cho anh em Mũ Đỏ thực tập tác xạ, lần lượt từng chiếc bị tiêu diệt, từng chiếc lần lượt bốc cháy, giúp anh em Song Kiếm Trấn Ải thực tập bắn M72, sau khi đă tiêu diệt được chiếc đầu tiên, tinh thần anh em lên cao ngất trời, ai cũng muốn chính ḿnh phải tiêu diệt được chiến xa, cho nên khi cuộc chiến tạm lắng dịu, chúng tôi chứng kiến hai tân binh, đứng trước một chiến xa của địch đă bị cháy, bằng hai vết M72, anh nào cũng nhận là ḿnh bắn trước, và ai cũng tin tưởng M72 là khắc tinh của chiến xa địch, nếu chúng ta biết cách bắn, chúng tôi thích thú nghe hai tân binh tranh căi, liền tham gia cho vui, tôi hỏi: - Vị trí của hai em ở đâu,? Hai anh tân binh nhanh nhẹn chỉ vị trí tác chiến của ḿnh, xong rồi phân trần theo ước tính của ḿnh, - Đích thân thấy không vết này phải là em bắn nó mới đúng hướng, - Không phải đâu, đích thân thấy vết này nó thẳng góc với em hơn, Các em đâu có biết khi trúng hỏa tiễn th́ chiến xa vẫn c̣n di chuyển, nên bây giờ khó biết ai bắn trước ai bắn sau, tôi lên tiếng dàn ḥa, - Cả hai em đều bắn trúng như vậy là có chiến công bằng nhau, Đại Đội Trưởng (Hùng) xen vô cho vui vẻ cả làng, - Cả hai tụi bay đều có công bằng nhau, tao cho hai đứa vừa thăng cấp lên binh nhất, vừa huy chương nữa chịu không, tôi thấy hai anh tân binh (bẽn lẽn) vui cười rồi chào chúng tôi đi về vị trí của ḿnh. Tôi nh́n đồng hồ 5:00 giờ sáng, tiếng Thiếu Tá Nguyển Trọng Nhi Trưởng Ban 3 Lữ Đoàn đang truyền lệnh cho ban 3 TĐ11ND, và Tiểu Đoàn Phó TĐ3ND đều đặn và chặt chẽ, tôi nghĩ thầm, chúng tôi liên lạc với nhau như vậy, chiến thắng đến là chuyện tất nhiên, nếu các đơn vị khác cũng chuẩn bị chiến trường chu đáo, phối hợp hỏa lực nghiêm minh, th́ cũng phải chiến thắng như vậy thôi, điếu thuốc lá trên tay đỏ liên tục, cà phê hết ly này sang ly khác, rồi t́nh h́nh chiến sự lại sốt dẻo, nên chúng tôi rất tỉnh táo theo dơi cuộc chiến anh dũng của TĐ11ND và TĐ3ND, các tiền sát viên làm việc rất hữu hiệu, hôm nay mỗi đại đội đều được một pháo đội yểm trợ, ít có chiến trận được hỏa lực mạnh mẽ như vậy, v́ thường một tiểu đoàn tác chiến mới được một pháo đội yểm trợ trực tiếp, từ lúc địch quân khởi sự tấn công TĐ11ND, chúng không pháo kích BCH/LĐ2ND và BCH/TĐ1PB nữa, chúng tôi không c̣n thấy mệt mỏi, tin vui đến liên tục, tôi dùng một máy truyền tin riêng, đưa tần số sang nghe hệ thống chỉ huy nội bộ của TĐ11ND, to miệng nhất vẫn là Trinh và Hùng hai anh chàng Đại Đội Trưởng này ganh nhau về tài diệt chiến xa, họ vui vẻ đánh cá nhau như cuộc vui chơi đua ngựa, nếu ai rang nhiều cua (diệt nhiều chiến xa) hơn, cứ một con cua rang muối là một két bia, nghe những mẩu đàm thoại ngắn gọn giữa các Đại Đội trưởng với nhau, ai cũng có thể đoán được trận chiến sẽ ngă ngũ ra sao, tôi nghĩ chắc địch quân không muốn sống nữa rồi, gần sáng mới tấn công, đúng là vào tử địa, tôi mỉm cười thầm chúc anh em TĐ11ND, những con chim trong đoàn Song Kiếm Trấn Ải, được toại nguyện (ngày hôm sau ta lần lượt khai thác tù binh mới biết địch cố gắng tấn công càng sớm càng tốt, nhưng chiến xa đồn trú tại khu vực gần La Vang, di chuyển lại Mỹ Chánh trước, th́ lại sợ bị các toán viễn thám của ta phát giác, địch không giám di chuyển ban ngày sợ lộ, ban đêm không giám bật đèn lớn, chỉ giám bật đèn mắt mèo, và đi sát nhau sợ lạc nhau v́ vậy mà đi chậm, cho nên thay v́ giờ tấn công là 2:00 giờ sáng mà không làm đúng được, chúng đă coi kỹ sa bàn điểm đóng quân của ta, và đă phân chia nhiệm vụ cho từng đơn vị chiến xa và từng đơn vị bộ binh tùng thiết, như vậy kể như chúng đă thực tập tấn công trước trên sa bàn, chúng chuẩn bị chiến trường cũng chu đáo đấy , chúng có biết đâu vỏ quít dầy có móng tay nhọn, sa bàn của chúng không đúng với thực tế, những tin tức do chính các toán trinh sát của chúng nh́n thấy và vẽ lại đều sai, v́ những điểm chúng quan sát được chính là những điểm ban ngày ta cố ư cho chúng quan sát, những vị trí thật được ngụy trang kín đáo và lùi vào phía trong, không một vị trí pḥng thủ nào của ta sát ngay bờ sông như chúng đă vẽ lại và chúng đă cho thực tập vào vị trí nghi binh của ta, c̣n vấn đề vô cùng quan trọng nữa, bị xáo trộn không ít là khi chưa vượt sông đă bị các toán Viễn Thám bên kia sông, cũng như các toán tiền sát viên của ta bên đây sông, xin pháo binh bắn trúng đội h́nh, làm tổn thất một số đáng kể, ngay lúc đó chúng đă thấy chiến trường đêm nay, hoàn toàn bất lợi cho chúng, tinh thần có phần nao núng, v́ chúng không có đơn vị trừ bị, để điền vào chỗ trống của một vài chiến xa cũng như một vài đơn vị bộ binh mới bị tiêu diệt, cho nên một vài mũi tấn công bị trống, trận chiến trở nên thiếu quân bằng, nhất là từ ngày vượt sông bến Hải, đơn vị của chúng chưa gặp một địch thủ nào, đă cản được bước tiến của chúng, cho nên tinh thần của địch đang cao trên đỉnh núi, bắt đầu đụng trận, th́ tinh thần của chúng xụp xuống đáy vực, một xạ thủ đại liên trên chiến xa địch đă thổ lộ, anh không thấy một mục tiêu nào để bắn, mà chỉ bắn cho có tiếng nổ để giữ tinh thần, c̣n xạ thủ đại bác không dật trên chiến xa địch c̣n thê thảm hơn nữa, anh nói anh bắn gần hết số đạn đại bác trên xe mục đích là cho bớt sợ hăi, v́ không thấy một mục tiêu nào cả). Lúc Thiếu Tá Tấn ban 3 TĐ1PBND đang điều khiển tác xạ TOT cho 6 pháo đội thi hành, trời thương chúng tôi sương mù chỉ dầy đặc dưới thung lũng, c̣n các vị trí Pháo Đội lại quang đăng không có mây, cho nên các pháo đội tác xạ vẫn dùng đầu nổ CVT được như thường, chúng tôi nghe trên máy Thiếu Úy Thức báo cáo với Pháo Đội Trưởng yểm trợ trực tiếp Pháo Đội C1 Nhảy Dù, (lúc này Pháo Đội Trưởng Pháo Đội C1 Nhảy Dù là Đại Úy Nguyễn Cẩn Ngọc, Ngọc có biệt danh là Ngọc Thầy tu, v́ tánh t́nh anh như một nhà tu hành, hơn nữa gia đ́nh anh có 10 anh chị em, th́ 5 người là Linh Mục, 5 người là bà Soeur, chỉ có một ḿnh anh là Thiên Thần mà thôi, sau này anh là Thiếu Tá Tiểu Đoàn Phó, hiện anh và gia đ́nh ở tại Houston, Texas) Một cua rang muối như vậy là địch tổn thất thêm một chiến xa, trong khi các chiến xa của chúng chưa chạm trán trực tiếp với TĐ11ND, chúng tôi vô cùng sung sướng và nghĩ rằng khi chiến trường lắng dịu chắc chắn, chúng tôi phải tới tận nơi những chiến xa của địch, bị Pháo Binh tiêu diệt để t́m nguyên do tại sao chúng bị cháy như vậy, trời quả vẫn c̣n thương chúng tôi. Khoảng 5:20 địch đồng loạt tấn công hai đại đội của TĐ3ND và ba đại đội của TĐ11ND, (c̣n một đại đội tác chiến của TĐ11 không ở trên tuyến đầu, ở phía sau làm thành phần trừ bị, bảo vệ bộ chỉ huy tiểu đoàn), chính toán cố vấn Hoa Kỳ xử dụng một cây Hỏa Tiễn TOW bắn cháy một chiến xa đầu tiên do đạn bắn thẳng và có quan sát được, chiến xa này cháy trước khi chúng tràn vào tuyến, Thiếu Tá Tấn phân chia mỗi pháo đội 105 ly yểm trợ một đại đội tác chiến, c̣n pháo đội 155 ly giao cho sĩ quan Liên Lạc của BCH/TĐ11ND. Thiếu Úy Thức báo cáo chiến xa địch tràn vào trong nhưng không có tùng thiết, nên các chiến sĩ Mũ Đỏ của Tú Trinh (chỉ danh của Trung Úy Đinh Viết Trinh Đại Đội Trưởng Đại Đội 111Nhảy Dù, ngay sau trận diệt chiến xa anh được vinh thăng Đại Úy, anh có biệt hiệu là Trinh ba búa, anh bị thương mức độ tàn phế 90% tại trận Thường Đức, anh và gia đ́nh hiện đang ở San Jose, tuy đời sống khó khăn nhưng anh lúc nào cũng mỉm cười) phải leo lên thiết giáp địch mở vung cho vào nồi muối M26 (lựu đạn M26) để rang cua, trong lúc đó cánh quân của TĐ3ND bị địch tấn công bằng bộ binh, chỉ có ba chiến xa cùng ḥa đồng tấn công, nhưng đội h́nh phối hợp bị tan nát bởi các toán Tiền Sát Viên Pháo Binh của ta, điều chỉnh từng loạt đạn theo ư muốn, nhất là lúc này không phải là lúc, mà chiến xa có thể làm cho các chiến sĩ Mũ Đỏ nao núng, trái lại các anh em Mũ Đỏ c̣n mong cho chiến xa xuất hiện để được dịp thi thố tài năng, cho nên ngoại trừ rất ít chiến xa của địch bị Pháo Binh và hỏa tiễn Tow tiêu diệt, c̣n lại bao nhiêu chiến xa khác, đều bị các chiến sĩ Mũ Đỏ của năm đại đội Mũ Đỏ trên tuyến đầu tiêu diệt, chiến xa cháy ngay trên tuyến pḥng thủ, hay chỉ cách tuyến pḥng thủ chính không đầy 50 thước, sau khi cuộc chiến chấm dứt, lúc mà pháo binh của địch quân đang hoạt động trả thù, trời sáng trưng, chúng tôi tháp tùng theo Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng, nên có dịp được hỏi thăm những anh em khinh binh, tuy biết trước nhưng tôi vẫn đặt câu hỏi: Tại sao anh em lại để chiến xa vào gần như vậy, tất cả đều được anh em Mũ Đỏ 11 trả lời tương tự như học sinh lớp ba, cùng học một bài thuộc ḷng do thầy giáo cho bài từ ngày hôm trước: Đích Thân ơi nếu không để nó vào gần như vậy th́ ḿnh chết; chiến xa nó ở xa 100 thước chắc ǵ ḿnh bắn trúng nó, hơn nữa bắn phía trước không hiệu quả bằng bắn ngang hông, không may bắn nó không cháy là ḿnh bị lộ mục tiêu , như vậy là tiêu với nó ngay, không khác ǵ ḿnh tự sát vậy; cho nên tụi em nhận được lệnh của trung đội trưởng, thằng nào mà bắn trật chiến xa là bị cấm phép; nên chắc ăn là để chiến xa nó vào gần ḿnh rồi hăy bắn, để khỏi bị cúp phép. Một số ít chiến xa chưa khai hỏa nhiều, không may cho chúng v́ chúng không thấy đường nên chúc đầu xuống hố, một trái M72 là một chiến xa dễ dàng, một trái M72 là phải tiêu diệt một chiến xa như hai với hai là bốn vậy, Chiến xa địch cũng có chiếc vào tới BCH/TĐ11ND nhưng bị bốc cháy tức thời, Chiến xa địch không phối hợp được bộ binh, cho nên yếu tố quyết định chiến trường không dành cho chúng, có thể v́ các loạt đạn CVT của Pháo Binh đă làm chúng tan hàng ngũ, phối hợp giữa bộ binh và thiết giáp không c̣n, sau đó thiết giáp lên đồi chạy nhanh hơn bộ binh nên vào trước, c̣n bộ binh lúa quớ vào sau làm bia cho anh em Mũ Đỏ, yếu tố chính ta chiến thắng là do ḷng quyết chiến quyết thắng của các anh em trên tuyến đầu, họ sung sướng khi thấy địch xuất hiện, họ không được vui cho lắm v́ tiêu diệt được quá ít chiến xa, không đáng công phải chuẩn bị quá vất vả; c̣n bộ binh của địch th́ hoàn toàn không đáng kể, địch tiến vào gặp ta bị chết bị thương mà vẫn chưa xác định được ta ở đâu; lúc này pháo của địch cũng hoạt động mạnh, nhưng thay v́ yểm trợ cho địch, pháo của địch lại trở thành yểm trợ cho ta, các loạt pháo này đều rớt xuống sông Mỹ Chánh và bên bờ phía bắc, có lẽ do TSV/PB của địch đă bị tử thương trong đêm qua, cho nên không có ai điều chỉnh các loạt đạn, v́ vậy pháo của địch chỉ bắn trúng địch, hay bắn trúng chỗ không người, pháo binh bắn theo bản đồ tin tức, hay bắn theo các đài quan sát trên dăy trường sơn, v́ ta không có sơ hở cho đài quan sát ở xa thấy được, nên không may cho chúng là chẳng pháo trúng đoàn quân Mũ Đỏ, mà lại trở thành yểm trợ cho đoàn quân Mũ Đỏ. Khoảng 5:50 sáng một đoàn Cobra vào vùng xin Pháo Binh ngưng tác xạ, đó cũng là lúc chiến xa địch đă hoàn toàn bị tiêu diệt, chiếc xe chỉ huy của trung đoàn phó chiến xa địch đă bị các chiến sĩ Mũ Đỏ của Tú Trinh làm thịt kể như là chiếc cuối cùng; tại tuyến của TĐ3ND ta diệt 3 chiến xa địch, tuyến của một đại đội của TĐ11ND tức là ĐĐ111ND ta tiêu diệt 8 chiến xa và một xe chỉ huy, hai hỏa tiễn TOW tiêu diệt tổng số 4 chiến xa, hai chiến xa địch đi lạc ra gần quốc lộ số 1, một chiếc bị bắn cháy, c̣n một chiếc đầu hàng c̣n nguyên vẹn; nói chung, chúng dàn chiến xa ra đánh dài trên tuyến đầu, cho nên đơn vị nào cũng được hân hạnh tiêu diệt chiến xa như nhau. Đoàn Cobra vào vùng, mọi người ngạc nhiên, chính cố vấn Mỹ cũng không biết đây là đoàn Cobra do ai phái tới, sau một hồi mới hiểu ra đây là đoàn Cobra từ Sài G̣n gửi ra từ những ngày hôm trước, đậu sẵn tại hàng không mẫu hạm chờ lệnh từ Sài G̣n, chuyển lệnh qua cố vấn tại Quân Đoàn I, đoàn Cobra có chỉ danh là Red Team, mới được thành lập bên Thái Lan, cho nên các cố vấn cũng không rơ, đây là lần đầu xuất quân của họ, với nhiệm vụ t́m và tiêu diệt chiến xa địch, mỗi chiếc Cobra được trang bị rất tối tân, tất cả đều trang bị hồng ngoại tuyến để nh́n ban đêm, và sensor để t́m hơi nóng, do một sĩ quan cấp tá chỉ huy, đoàn này gồm có: - 1 CNC chỉ huy và liên lạc - 4 Cobra trang bị hỏa tiễn chống chiến xa và minigun - 4 Cobra trang bị hỏa tiễn thường và minigun - 3 trực thăng, chuyên chở trung đội cảm tử, nếu không may có một máy bay trong đoàn, bị trúng đạn phải đáp xuống đất, trung đội cảm tử này sẽ được thả xuống ngay để tiếp cứu, hoặc để chiến đấu chờ đợi tiếp cứu đến. Đoàn máy bay Cobra săn chiến xa bắn thêm được 1 chiến xa đang tẩu thoát bên bờ bắc sông, họ bay theo vết chiến xa suốt từ Mỹ Chánh cho tới giáp ranh Quảng Trị, chỗ nào nghi ngờ họ đều tấn công ngay, kể cả bộ binh, khi không thấy c̣n chiến xa cũng như bộ binh địch hoạt động nữa, họ đă quay lại xin yểm trợ sát quân bạn và tiêu diệt một số bộ binh địch đáng kể, và họ cho biết họ đếm được tổng số 22 chiến xa bị tiêu diệt, về sau mới rơ c̣n 4 chiến xa địch không bị cháy đă đầu hàng, nằm ngay trên tuyến của ta nên đoàn Cobra săn chiến xa tưởng lầm đó là chiến xa của ta, họ đếm chiếc nào bốc cháy là của địch, chiếc nào c̣n nguyên vẹn là của ta, như vậy c̣n 4 chiến xa địch đă đầu hàng, nằm tại tuyến pḥng thủ của ta, những chiến xa này không bị hư hại. Tuy vậy địch vẫn chạy thoát 1 xe chỉ huy, Thượng Tá Trung Đoàn Trưởng chiến xa chạy thoát về tới La Vang và bị xử bắn ngay tại La Vang. Tài liệu này lấy được tại La Vang, khi tái chiếm Quảng Trị. Chúng tôi gặp lại anh em trong Đoàn Song Kiếm, ai ai cũng hân hoan trước chiến công của ḿnh, nh́n anh em tù binh đang lo sợ, cúi mặt không giám nh́n thẳng, tôi thầm nghĩ họ đâu biết được, là họ đă may mắn vô cùng, khi họ được anh em Mũ Đỏ bắt làm tù binh, mạng họ chắc chắn sống, họ sẽ không bị tra khảo, họ sẽ không bị ngược đăi, như các anh em của chúng ta, không may lọt vào tay địch, họ sẽ được giữ tại các trại tù binh chiến tranh, một ngày đẹp trời nào đó họ sẽ có cơ may gặp lại gia đ́nh, sau này tất cả tù binh chiến tranh, đều được trao trả tù binh ngay trên bờ sông Thạch Hăn, Quảng Trị năm 1973; hay những địa điểm trao trả tù binh khác, như Lộc Ninh, B́nh Long năm 1974. Sau khi biết được tại sao chiến xa của địch cháy, chúng tôi thật vui, chúng tôi biết rằng kinh nghiệm này sẽ giúp cho anh em chúng tôi bớt đổ máu, chúng tôi đang vui như những ngày c̣n hẹn ḥ, bắt gặp một Mũ Đỏ trong đoàn Song Kiếm Trấn Ải mặt mũi vẫn c̣n lem luốc v́ thuốc súng, đang mải mê biên thư, trông dáng điệu rất thư sinh, trẻ măng nên tôi dừng lại hỏi chuyện. - Em biên thư cho ai đó? Tuy hỏi như vậy nhưng tôi cũng đoán được là biên thư cho ai rồi, tuổi c̣n nhỏ ngoài người yêu th́ c̣n ai xứng đáng nhận được bức thư sau trận chiến, khi ngước mắt nh́n thấy tôi, anh vội vàng nghiêm chỉnh chào. Khuôn mặt c̣n rất non, anh lắp bắp không thành tiếng, tôi vịn vai thân mật bảo cứ ngồi xuống biên thư, nhưng anh vẫn đứng đó, mặt đỏ bừng: - Dạ em biên thư ch... cho... - Cho người yêu phải không? - Dạ, anh ấp úng nhẹ nhàng đáp, - Em sẽ nói ǵ với người yêu của em? - Em sẽ nói em đụng trận với chiến xa địch... - Em không sợ người yêu của em lo sợ hay sao? Vậy em có bắn cháy chiến xa nào hay không? - Thưa các anh lớn dành hết nên em không bắn được chiếc nào cả, c̣n người yêu của em, cô ấy không sợ đâu đích thân, cô ấy rất hănh diện là người yêu của Mũ Đỏ, cô ấy thích đội nón đỏ, nhưng em không giám cho cô ấy đội, cô ấy biết Mũ Đỏ là ở đâu cũng đánh trận mà, tôi mời anh điếu thuốc, tôi biết lúc này ai cũng đang thiếu thuốc, anh rụt rè đón nhận, nh́n mặt anh tân binh tôi biết anh c̣n trẻ lắm, tôi hỏi thăm ngay: - Em đi lính được bao lâu rồi? - Thưa em đi lính được hơn một năm rồi; tôi lấy làm lạ, như vậy không c̣n là tân binh nữa, đi lính hơn một năm rồi, một năm biết bao nhiêu lần chạm địch. - Vậy sao? như vậy là em có tham dự trận Hạ Lào, trận Dambe và cả Charlie nữa? - Em có tham dự trận Hạ Lào, trận Dambe em bị thương nên em không được tham dự trận Charlie. - Bây giờ em đang mang cấp bậc ǵ? - Em lên Hạ Sĩ rồi nhưng tụi nó cứ gọi em là Hạ Sĩ Sữa nên em không thèm mang lon. - Năm nay em bao nhiêu tuổi rồi? - Năm nay em mới có 17 tuổi, lúc em vào lính, em không đủ tuổi, em phải lấy giấy khai sinh của người anh của em, để đi lính, anh của em tên Nguyễn văn Trương, em tên Nguyễn văn Trường, nên không phải sửa ǵ cả, v́ vậy năm nay em 20 tuổi rồi đó. Tôi liếc nh́n ḍng chữ lớn trên bức thư dở dang, tay anh đang cầm; tôi ṭ ṃ hỏi: - Tại sao em biên thư cho người yêu mà em lại viết Cây cà rem yêu quí ? Lúc này tuy anh rất b́nh tĩnh, nhưng Trường rụt rè không trả lời, mặt anh đỏ lên trông thật dễ thương, ṭ ṃ muốn biết sự thực vui vui này, nên tôi phải dụ, - Này nói đi, anh sẽ tặng bao thuốc, Trường vui vẻ nhận lời, - Thật không đích thân? - Thật chứ. - Này nhé... Trường cười hóm hỉnh rồi tiếp, Đích thân muốn ăn cà rem, cũng phải tay cầm lấy cây cà rem, rồi đưa lên miệng nhẹ nhàng thưởng thức hương thơm của cà rem, và vị ngọt dịu dàng của cà rem, em nghĩ đích thân cũng phải qua thời kỳ có người yêu như em, th́ cũng tay ôm, miệng hôn để thưởng thức hương thơm từ miệng người yêu, kèm theo hương vị ngọt ngào, như em bây giờ, v́ vậy em coi người yêu của em cũng như cây cà rem có khác ǵ đâu, phải không đích thân? Tôi thầm bái phục anh lính trẻ mà có tâm hồn rất ư là hồn nhiên, rất ư là lăng mạng, không thua ǵ các thi sĩ. - Thế người yêu của em năm nay bao nhiêu tuổi rồi? - Hồng năm nay 16 tuổi. - Thế gia đ́nh Hồng có ngăn cản cuộc t́nh của em hay không? - Chúng em yêu nhau từ lúc em... mặc bộ đồ hoa nón Đỏ đi phép lần đầu tiên Hồng thấy em lớn hẳn ra, năm đó đúng ra em mới có 16 tuổi, Hồng thấy em mặc quân phục áo Hoa mũ Đỏ, Hồng thích em từ đó, gia đ́nh Hồng chống đối dữ lắm. - Thế trước đó em có biết Hồng hay chưa? - Chúng em ở cùng xóm bàn cờ với nhau, nên chúng em trước đó cũng có quen biết nhau, tôi cảm ơn Trường đă kể cho nghe chuyện yêu đương của em, không quên đưa bao thuốc tặng Trường và rời vị trí TĐ11ND, Tôi c̣n muốn được nghe câu chuyện yêu đương của người lính trẻ, câu chuyện t́nh thật đẹp, nhưng thời gian không cho phép, rồi sau đó tôi không có dịp được gặp anh nữa, nh́n mọi người vui mừng v́ đă trả được thù cho đơn vị, chúng tôi vui trong niềm vui chung đó. Khi về tới Lữ Đoàn chúng tôi tới ngay các Pháo Đội, để được tận mắt nh́n thấy sinh hoạt của các Pháo Thủ, sau một đêm thi hành tác xạ yểm trợ không ngừng nghỉ, đó là lúc toán tiếp tế đạn bắt đầu hoạt động, từng chiếc xe đạn êm ả chạy vào vị trí pháo đội, địch không quan sát được cho nên không bị pháo kích, nếu lúc này một người lạ, dù là một quân nhân, hay thường dân đi lạc vào đây, quí vị phải vô cùng ngạc nhiên, không biết, đây là quân nhân thuộc binh chủng nào, quân nhân đến tiếp tế đạn ai cũng biết đó là, những quân nhân trong đoàn quân Mũ Đỏ, c̣n những ai kia vậy, quân phục mầu đen, mặt mày lem luốc, thưa không họ mặc áo hoa trên áo có huy hiệu đàng hoàng, nhưng bây giờ không ai c̣n thấy huy hiệu nữa, tất cả đều một mầu đen, mầu của khói súng, sau một thời gian dài tác xạ, khói súng đủ sức nhuộm mầu áo trận trở thành mầu đen bóng, đến áo lót của họ cũng trở thành mầu đen, chỉ c̣n hai con mắt tinh tường, nhưng cũng không c̣n nhanh nhẹn, sau một đêm thức trắng đêm, và nhiều đêm canh thức trước đó, bây giờ các Pháo Thủ Mũ Đỏ đă thấm mệt, nhưng đâu có được nghỉ, v́ nhiệm vụ vẫn c̣n đ̣i hỏi họ phải chu toàn, sau một hồi tác xạ theo yêu cầu của Tiền Sát Viên, bây giờ sáng rồi địch quan sát được làn khói thuốc súng do bắn quá nhiều, những loạt đạn 130 ly ào ào đổ tới, ai giúp các pháo thủ, phản pháo bây giờ, thưa không có ai cả, v́ không có Không Quân yểm trợ lúc này, mà pháo của ta th́ ngoài tầm, đành nương theo khói đạn nổ của địch mà bắn yểm trợ cho quân bạn, các pháo thủ Mũ Đỏ dù nguy khốn như Hạ Lào, (v́ đây chính là những pháo đội đă vào Hạ Lào rồi ra khỏi Hạ Lào) dù địch quân cố gắng diệt pháo của ta, các pháo thủ Mũ Đỏ cũng vẫn anh dũng tác xạ, dưới làn mưa pháo của địch quân, đă mang lấy nghiệp vào thân, làm sao ươn hèn cho được, dù rằng có khi không may, cả khẩu đội bị thương tích cùng một lúc; tiếng đạn rít trên không trung chúng tôi biết là địch pháo kích dài, đạn bay qua đầu, tiếng đạn pháo của địch nổ chát chúa bên phải và dài đối với pháo đội, chúng tôi hiểu ngay năy giờ địch vẫn chưa pháo trúng chúng tôi, v́ các pháo đội đă nương theo địa h́nh mà chiếm vị trí cho các khẩu đội, nên các đài quan sát của chúng không thấy được, chúng chỉ quan sát được khói súng và bắn để điều chỉnh trúng pháo đội của ta, khi chúng xác định được vị trí pháo của ta,v́ đài quan sát của chúng tuy ở cao nhưng lại xa, trời buổi sáng vẫn c̣n chút sương rơi nên quan sát cũng khó mà chính xác cho được, bây giờ chỉ cần một sơ hở nhỏ trên vô tuyến là chết ngay với chúng, chúng sẽ khai thác ngay, chúng tôi biết như vậy, tôi liền lên tiếng than thở với Pháo đội là địch có đài quan sát nên nó quan sát chính xác quá, coi chừng bắn xong phải xuống hầm ngay, khai thác được sơ hở này, chúng bắn hiệu quả dồn dập ngay, chúng khôn nhưng không ngoan chút nào cả, chúng phải biết tôi làm sao sơ hở như vậy được, chúng rất rành giọng nói của tôi, chúng đă từng gọi tên và ngay cả chức vụ của tôi ra chúng chửi trên hệ thống Tác Xạ, chúng quên rằng chúng tôi được thụ huấn từ quân trường ra, chúng tôi đâu có được hân hạnh lên lon theo đảng tịch như chúng mà ngu dại như vậy; sau khi chúng pháo dồn dập tưởng rằng chúng tôi sẽ bị thiệt hại, những loạt đạn 130 ly đến tới tấp cách vị trí pháo đội trên 300 thước sai cả về hướng và cả về tầm, tôi la thất thanh trên hệ thống, cuống cuồng hỏi thiệt hại pháo đội, các pháo đội trưởng cũng vậy đâu có phải tay mơ mà nắm pháo đội, cũng trầy vi tróc vảy mới leo lên được chức vụ này, pháo đội trưởng hiểu ư ngay báo cáo thiệt hại nửa kín nửa hở, chúng tôi tin chắc là chúng sẽ mừng lắm, thất bại bộ binh chiến xa, nhưng gỡ lại được pháo binh chăng? Rồi chúng đâu có tha, chúng pháo dồn dập yếu tố có sẵn làm chúng tôi nh́n nhau cười, đó là lúc chúng tôi đang đứng bên nhau, bàn định chương tŕnh vượt tuyến Mỹ Chánh nay mai, chúng tôi đang chờ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù ra đầy đủ là chúng tôi sẽ vượt tuyến Mỹ Chánh hỏi thăm chúng, đáp lễ cho đúng phép xă giao, hôm nay chúng đến đây hỏi thăm Song Kiếm Trấn Ải, chúng tôi sẽ hỏi thăm thật tận t́nh, chúng tôi không hẹp ḥi ǵ mà không đưa cho chúng thật hậu hỹ quà cáp, hăy chờ quà xă giao của Mũ Đỏ. Song Kiếm Trấn Ải đă rửa được hận Charlie, bằng một trung đoàn chiến xa và một trung đoàn bộ binh địch, TĐ11ND rửa hận dễ dàng như vậy là do tất cả quân nhân trong tiểu đoàn, một ḷng một dạ như nhau, chuẩn bị chiến trường, bắt địch phải tiến quân theo ư ta, bắt địch phải đón nhận những trận đ̣n theo ư của ta, nói cho minh bạch hơn là do tài trí của các cấp chỉ huy, từ tiểu đội cho đến tiểu đoàn, chúng ta chiến thắng không bằng lấy thịt đè người, không bằng lấy hỏa lực để tiêu diệt chúng, chúng ta chiến thắng bởi những bộ óc tinh khôn, sáng suốt, nên chiến thắng trong vinh quang, không bằng đau thương cho thuộc cấp. V́ quen ăn cua rang muối nên khi đánh ra La Vang TĐ11ND lại rang thêm một số cua sắt nữa chính v́ vậy tết Quư Sửu Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù hân hạnh đón nhận quà của Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa, một số hiện kim và bằng tưởng thưởng ghi danh TĐ11ND là đơn vị diệt chiến xa số 1 của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, và cũng là để đoàn quân Mũ Đỏ chuẩn bị vượt sông Mỹ Chánh trong nay mai... Trần Văn Lư ____________________ ____________________ _______ Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù được chính thức thành lập ngày 1 tháng 12 năm 1967 do Thiếu tá Nguyễn Viết Cần làm Tiểu Đoàn Trưởng đầu tiên tại Sài G̣n với huy hiệu Song Kiếm Trấn Ải và nằm trong hệ thống chỉ huy chiến thuật của Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù. Bản doanh của Tiểu Đoàn 11 là Trại Nguyễn Huệ trên đồi Tăng Nhơn Phú, Thủ Đức. Cũng như các đơn vị Nhảy Dù kỳ cựu khác, sau khi thành lập và trải qua giai đoạn huấn luyện chiến thuật tại Trung Tâm Huấn Luyện Quốc Gia Vạn Kiếp tại Bà Rịa, đơn vị này đă được đưa ngay vào chiến trường đang sôi động khắp các mật trận và khắp bốn vùng chiến thuật với nhiệm vụ bảo quốc an dân. Những trận đánh đáng ghi nhớ của TĐ11ND: – Ngày 29-1-1968 Tết Mậu Thân, ngay đêm giao thừa trong lúc đang thụ huấn tại TTHL Vạn Kiếp chưa làm lễ xuất quân, TĐ11ND đă đánh tan một đơn vị tinh nhuệ cấp Trung Đoàn của VC tấn công vào quân trường này… – Ngày 5-2-1971 TĐ11ND do Trung tá Ngô Lê Tỉnh làm Tiểu Đoàn Trưởng được không vận đến Đông Hà Quảng Trị để chuẩn bị tham gia cuộc Hành Quân Hạ Lào Lam Sơn 719. – 12 giờ trưa ngày 8-2-1971, TĐ11ND được trực thăng vận thả xuống tại một địa điểm được chỉ định nằm cạnh QL9 và cách biên giới Lào-Việt khoảng 5km để thiết lập căn cứ hỏa lực Bravo yểm trợ cho cuộc tiến quân sang Lào. – Ngày 4-4-1971, TĐ11ND do Trung tá Ngô Lê Tỉnh chỉ huy cùng toàn thể LĐ2ND được không vận lên Pleiku từ phi trường Đông Hà bằng phi cơ C141 của Hoa Kỳ tăng phái cho Sư Đoàn 22 Bộ Binh để mở cuộc Hành Quân Quang Trung 22/2 giải tỏa áp lực địch quân quanh Căn Cứ 6 ở Kontum. – Ngày 25-3-1972 Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù do Trung tá Nguyễn Đ́nh Bảo làm Tiểu Đoàn Trưởng vừa từ Sài G̣n ra Quân Khu II được trực thăng vận đổ ngay vào căn cứ Charlie thay thế TĐ2ND trong trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa tại mặt trận Tây Nguyên. Ngày 12-4-1972 khoảng 11 giờ trưa đạn pháo của địch quân đă đánh trúng vào hầm Trung Tâm Hành Quân của Tiểu Đoàn và Trung tá Nguyễn Đ́nh Bảo đă bị tử thương. – Ngày 8-5-1972, Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù do Thiếu tá Lê Văn Mễ làm TĐT, từ mặt trận Tây Nguyên được không vận đến Huế tăng viện cho mặt trận QKI, ngay khi vừa đến Huế th́ nhận được lệnh tái chiếm phía Nam sông Mỹ Chánh. – Ngày 2 và 3 tháng 6/1972 Tiểu Đoàn 11 đă giao tranh dữ dội với Trung Đoàn 66 CSBV có chiến xa yểm trợ tại bờ Nam sông Mỹ Chánh. TĐ11 đă tiêu diệt hằng trăm quân CS bỏ xác tại trận, bắn cháy 19 chiến xa đủ loại và bắt sống 9 chiến xa khác. – Ngày 2-7-1972, trong chiến dich Lôi Phong tái chiếm tỉnh Quảng Trị, TĐ11ND do Thiếu tá Lê Văn Mễ TĐT được trực thăng vận đổ xuống phía Bắc Sông Nhung dưới ánh nắng oi bức của mùa Hè đổ lửa làm trục chính cuộc tiến quân của Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù do Đại tá Trần Quốc Lịch chỉ huy, từ Hải Lâm tiến chiếm mục tiêu là nhà thờ La Vang. – Ngày 4-4-1975 Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù do Thiếu tá Nguyễn Văn Thành TĐT, TT Nguyễn Văn Giới TĐP được lệnh khẩn cấp lên đường ra Phan Rang bằng phi cơ C130 và C119 với nhiệm vụ bảo vệ pḥng tuyến Phan Rang. Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù: 1. Thiếu tá Nguyễn Viết Cần (1967-1969) từ ngày thành lập đến năm 1969 thuyên chuyển về SĐ21BB. 2. Thiếu tá Ngô Lê Tỉnh (1969-5/1971) thay thế Trung tá Nguyễn Viết Cần đến sau trận giải tỏa căn cứ 6 Kontum. 3. Trung tá Nguyễn Đ́nh Bảo (5/1971 – 12-4-1972) thay thế Trung tá Ngô Lê Tỉnh sau trận đánh tại Căn Cứ 6 cho đến khi tử trận tại đồi Charlie. 4. Thiếu tá Lê Văn Mễ (12-4-1972-11/1972) thay thế Trung tá Nguyễn Đ́nh Bảo tại đồi Charlie đến tháng 11/1974. 5. Thiếu tá Nguyễn Văn Thành (1974 – 16-4-1975) thay thế Trung tá Lê Văn Mễ từ tháng 11/1972 đến ngày 16-4-1975. Hiệu kỳ của TĐ11ND được mang giây biểu chương màu Bảo Quốc huân chương đỏ chấm vàng với thành quả 6 lần tuyên dương trước Quân Đội. Tài liệu tham khảo: – Insignia of The Republic Of VietNam Airborne Division copyright @ 2002 by Harry F. Pugh. – Phỏng vấn trực tiếp một số chiến hữu và Niên trưởng trong SĐND. Đại Úy Vơ Trung Tín - Tiểu Đoàn Truyền Tin SĐND – 714-856-9202 Đại Úy Nguyễn Hữu Viên - Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù – 714-897-1435 Email: pvotin@gmail.com |
KingBee PĐ219 và Lôi Hổ Nguyễn Cao Vỹ
2 Attachment(s)
Trong cái gọi là “Chiến tranh ngoại lệ”. Sự cải danh xưng là điều cần thiết … Từ những trại được gọi là FOB (Tiền doanh) đến CCN (Nhân viên kiểm soát Bắc) và nay cải danh là TF1AE (Lực lượng Đặc nhiệm 1). Người Mỹ bắt đầu chuyển giao phần nào lực lượng cho Nha-kỹ-thuật. Đơn vị phụ trách t́nh báo quân sự chiến lược của QLVNCH. Hai toán Thám-sát đầu tiên Thăng-long và Bắc b́nh. Nay thêm bốn toán nữa được chuyển giao với tên gọi mới là Hải-điểu, Hải-sơn, Hải-long, Hải-yến, Hải-sư, Hải-vân… Đại-đội B người Thượng cũng được chuyển giao. Trại c̣n lại hai mươi lăm toán thám sát và Đại đội A (Người Nùng và Miên) Vẫn do người Mỹ trực tiếp chỉ huy…Toán tôi Thăng-long được bổ sung quân số và đổi tên thành Hải-sơn. Thiếu úy Bửu Chính đi Kontum nhận lănh nhiệm vụ mới. Thiếu úy Phạm ngọc Điệp thay thế làm toán trưởng, Trung sĩ Trần Quang, toán phó cùng sáu Biệt kích Quân (Special Commando Unit)… Toán chúng tôi được lệnh về Long thành (Trung-tâm-huấn-luyện Biệt Kích) thụ huấn khóa Nhẩy dù. Năm ngày phép sau khóa học Nhẩy dù. Sàig̣n với những đường phố hoa lệ. Cái sang trọng từ mọi nơi…Khách sạn, quán xá, cà phê, nhà hàng, rạp hát.v.v. Thảy đều mang tính khác thường. Chúng tôi như choáng ngợp bời sự sa hoa, sắc mầu…Giao kết mỗi người 5,000 đồng cho năm ngày phép (giá trị bằng một tháng lương người lính quân dịch độc thân). Tám người trong toán. Như những anh Mán rừng lên tỉnh, cuộc chơi cũng chỉ ở cấp xă v́ túi tiền có hạn. Nguyễn duy Châu luôn phải tính toán trước những đề nghị này kia… Từ những nơi xa lạ, tụ nhau trong một nhà và cùng nhau chơi một tṛ chơi tạm gọi là cuộc đời… Ngày mai sẽ ra sao, ai biết?. Cuộc sống này về đâu?. Ai biết và tương lai nào cho ta… Mù mịt, chẳng cần biết!? Những con bạc cuộc đời vẫn dửng dưng chạy theo số phận. sống không cần ngày mai. Chết là cơi đi về… Cái khóa nào của thân phận con người… Ôi chỉ có Thượng-đế biết ! Ta chỉ là sản phẩm của Chúa… Vậy tùy vào cuộc chơi của Chúa… Trong chiến tranh quả thực nó đẻ ra lắm thứ đời thường. Đứa bé tập đi muốn vững chăi phải té ngă nhiều lần…Tới đây, an ủi một điều cái té của cuộc đời hôm nay sẽ mang lại kết quả tốt đẹp cho ngày mai. Năm ngày phép cho những đêm t́nh tạm bợ, bia bọt thâu đêm, suốt sáng. Cái thứ mùi son phấn, bia men hiển nhiên không thể thiếu. Nó như tô điểm đậm nét hay là gia vị của cái chơi mà theo sau phải là chữ bời. Những ngày phép qua mau, tŕnh diện trả phép tại Sở liên lạc (Đơn vị chỉ huy) Nằm sát bên Sân vận động Quân-đội… Khoảng mười giờ sáng. Leo lên chiếc C123 (Blackbird) về lại Đà Nẵng. Tiếp theo sau những ngày tháng của đời lính Biệt-kích. Hết huấn luyện rồi lại hành quân. Chương tŕnh hoạch định và chỉ huy vẫn trực tiếp do người Mỹ đảm nhiệm…Toán Hải-điểu ở sát cạnh toán tôi vừa phải bổ sung. Chuyến xâm nhập vừa qua bốn chết một bị thương. Toán trưởng Thiếu úy Nguyễn Dứa tử trận. Cũng may toán bị địch theo dơi và tấn công ngay trên băi đáp triệt xuất. Đoàn trực thăng rước toán can thiệp kịp thời. Bốc được toàn bộ toán về. Đêm nay, từ khu cấm (Isolation). Toán chúng tôi được đưa ra phi trường Đà-nẵng. Trời lạnh lẽo, tay da xe lại, môi nứt nẻ. Chiếc C130 của Thủy-quân-lục-chiến Mỹ đang đợi. Cùng đi có một Trung đội Thám báo Mỹ. Yên vị trên máy bay, nh́n những ánh mắt của các binh sĩ Mỹ vẻ ngạc nhiên, thèm thuồng, nể nang trước sự trang bị hành quân của chúng tôi. Nhất là chỉ với bốn người… Họ cứ nh́n chăm chăm vào những cây súng Car 15 hay dây đai câu, găng tay đen…Đặc biệt không nón sắt. Trong quân đội họ biết chúng tôi đang phải thi hành nhiệm vụ hiển nhiên là trên mọi người lính… Máy bay đáp xuống phi trường, đồng hồ chỉ ba giờ sáng. Xe đón chúng tôi đến Căn cứ xuất phát 1 - Phú Bài. Đă ba ngày qua, nằm chờ thời tiết. Những chiếc Kingbee cứ sáng đến chiều về… Hôm nay trời hênh nắng, nhưng gió lạnh vẫn buốt da thịt. Thiếu Tá Phát (Vương vĩnh Phát) Sĩ quan điều nghiên không thám, đến gọi Thiếu úy Điệp và Trung sĩ Quang lên pḥng thuyết tŕnh Không Quân. Do tính đặc biệt của mục tiêu, toán được khuyến khích đi bốn người, tuy ít nhưng êm ả, dễ lẩn trốn… Nhiệm vụ chính thám sát và phát hiện chỗ đặt khẩu pḥng không loại mới nhất 100 ly mà cả đến F4 hay F100 cũng phải kiêng dè… Điều đáng nói là sau bao lần không kich. Khẩu pḥng không ấy vẫn b́nh thường hoạt động lúc ẩn lúc hiện… Theo thuyết tŕnh sáu chiếc Kingbee sẽ đưa chúng tôi bốn người vào mục tiêu. Sáu chiếc Kingbee sẽ đáp đất bằng sáu băi khác nhau. Chỉ có một chiếc là thực sự có toán nhẩy…Covey chiếc OV10 đă bao vùng từ sáng. Báo về thời tiết đă cho phép. Sáu chiếc KingBee nổ máy, trong lúc hai Cobra và hai Huey Gunship đang ṿng chờ phối hợp… Gio lạnh và sương găng bay tạt vào khung cửa, trực thăng lên cao, những đám mây trắng loang lổ dưới kia, ánh nắng chả đủ sức sua đi cái lạnh và mây mù bay lăng đăng…Núi cao sừng sững trước mặt. Dăy Trường sơn xanh thẵm, phía tà, phía hữu, núi nối nhau chạy dài không dứt…Băng qua và bỏ lại rặng núi cao. Trực thăng đang trên lănh thổ nước Lào. Covey và bốn trực thăng vơ trang đang bay tầm thấp. Sáu chiếc KingBee dần xuống quần đảo xác định băi thả, mây mù bay bay loang loáng dưới ánh nắng yếu lan tỏa khắp núi rừng… Trực thăng vơ trang không dọn băi như thường lệ mà chỉ ṿng ứng chiến phía trên. Hai chiếc Kingbee tách ngang đáp dần xuống đất và cứ thế tuần tự, sáu trực thăng đă đáp sáu nơi an toàn…Chiếc chở toán tôi xuống áp chót, đổ chúng tôi sát b́a rừng…Chỉ tích tắc toán đă biến vào rừng… Di chuyển thật nhanh, tôi gọi điện báo an toàn. Núi rừng trở lại cái b́nh thường của nó, lạnh lẽo âm u đến khó chịu. Băng ngang con suối thấy toàn đá. Những chú cá thập tḥ kẽ đá nh́n chúng tôi xa lạ. Khu rừng rậm rạp cây cao… Châu dẫn đầu cứ phải lum khum t́m đường. Muỗi vo ve đâm sầm cả vào mặt, dưới chân đàn vắt uốn éo t́m mồi. Thoa vội thuốc trừ muỗi vào mặt, cổ và tay. Toán tạm nghỉ chốc lát… Một tiếng súng nổ chát chúa thật gần đă làm chúng tôi giật bắn người. Đứng lên tẽ sang hướng khác, di chuyển chậm, ḍ từng bước… Địch đang truyền tin và kiếm t́m từ băi đáp xâm nhập chăng? Băng nhanh qua con đường rộng khoảng hai mét, nh́n dấu chân trượt mới mẻ, tôi rợn cả người…Có tiếng ai đó húng hắng ho sau lưng. Tôi bảo Trung sĩ Quang gài lại trái ḿn M14 để xem có phải bị theo dơi rồi hay không và ra dấu đi thật nhanh tránh nơi nguy hiểm này. Vẻ yên ắng, an tâm phần nào bên gốc cây để ăn trưa. Địa thế không mấy rậm rạp, đủ che chắn, tầm nh́n tốt lư tưởng cho hành quân thám sát và tác chiến. Thiếu úy Điệp đang căn lại bản đồ, đánh dấu vị trí trái ḿn M14 để báo cáo… Có thể toán chưa bị lộ tung tích. V́ nếu địch theo dấu di chuyển của chúng tôi ắt hẳn ḿn phải nổ. Vội vàng di chuyển sau ăn trưa, toán tiến dần vào mục tiêu qua đi những đường ṃn chằng chịt, lúc hướng này lúc hướng kia. Mọi sự đều suông sẻ, ánh mặt trời đă bị mây mù che khuất. Để ư thấy một địa điểm thuận tiện ra dấu hiệu cho máy bay. Toán dừng lại, chờ đêm tối. Có tiếng hú đáp lại sau tiếng hú gần đây ngân dài. Trong ánh sáng lờ mờ lành lạnh… Một hồi lâu ngồi nghe ngóng… Trung sĩ Quang gài trái Claymore pḥng thủ. Trời đêm đen kịt, không trăng sao, chỉ c̣n tiếng thú rừng kêu, hú thênh thang, diệu vợi. Cảm tưởng như ở chốn ma quái, âm ty… Qua làn gió buốt lạnh, thu ḿnh vào cái áo đi mưa, cố dỗ dành giấc ngủ. Thức dậy vào lúc trời c̣n tối đen, tiếng gà gáy dồn dập, nh́n đồng hồ mới năm giờ sáng, nằm im bất động, suy tính việc ngày mới… Đúng kế hoạch hành quân. Sáng nay một cuộc không kích vào mục tiêu rồi tạo dựng giả định bốc toán ra khỏi khu vực, cốt để đánh lừa địch. Mặt trời đỏ lừ từ từ leo lên đỉnh núi. Bầu trời bỗng quang đăng, những đám mây đen nhỏ như vẩy con tê tê. Ca nước sôi cũng vừa nấu xong được đổ vào hai bịch gạo sấy, thêm ít nước lạnh cho vừa. Rồi ca cà phê thơm phức và một điếu Capstan cho phép… Tôi như quên đi thực trạng trong tiếng chim lao sao mừng ngày nắng mới. Đàn khỉ the thé, khịt khịt đuổi nhau trên cành cây. Ngay bên dưới một con trăn to lớn dài ngoằng cố leo lên cành cây to, hướng về đàn khỉ trên cao… Tháo trái Claymore pḥng thủ. Toán di chuyển … Tiếng ́ ́ quen thuộc của Covey nghe rơ dần. Thiếu tá Phát đang gọi toán, tôi trả lời và chuyển ngay bức điện báo cáo t́nh h́nh… Hai chiếc F100 Super Sabres bay ṿng gầm gừ trên cao. Covey gọi toán và xin mở cửa sổ (ư muốn thấy vị trí toán). Ra dấu cho Trung sĩ Quang, hắn bắt đầu chiếu gương. mặt trời chếch ngang mặt, cố gắng lẩn tránh những đụn mây đen ĺ lợm. Ngọn núi cao phía đông, đỉnh chỏm trắng xóa mây mù bấu chặt, chỉ cách ánh mặt trời trong gang tấc. – Tango echo đây papa kilo thấy vị trí của bạn rồi, mục tiêu hướng bắc cách khoảng 1000 mét. Yên tâm, chúng tôi bắt đầu vũ điệu Disco. Toán di chuyển trong tiếng bom đạn dậy đất trời, đợt tấn công thứ ba của máy bay chúng tôi đă nghe tiếng pḥng không… Tiếng nổ chắc đục cách bắn như dè dặt sợ tốn đạn và có âm vang xa rộng. Chiếc Covey bay cao nhưng chậm chắc chắn là đang cố sức phát hiện mọi hoạt động của địch. Tôi báo cáo đă nghe tiếng pḥng không nhập trận ngay tại vị trí đang oanh kích. Khu rừng tre hiện ra trước mặt. Xẹt qua đầu chúng tôi. Chiếc F100 cắt một lúc ba trái bom. Có lẽ hắn đă thấy được mục tiêu pḥng không… Trên cao hai viên đạn xanh chỉ điểm đang vút lên máy bay. Một tiếng nổ ầm của động cơ phản lực, chiếc F100 tăng tốc vút thẳng lên cao. Những tiếng nổ rung rinh mặt đất…Châu đang so lại địa bàn bởi phải tránh những bụi gai dầy đặc. Thiếu úy Điệp đưa tay chỉ những mụt măng be bét trong bụi tre. Tôi cười lắc tay không sao đó là thú rừng. C̣n nếu là người bẻ th́ bằng bặn và gọn ghẽ. Qua khỏi được khu rừng tre, tiếp đến những gốc chuối chen nhau với cây rừng. Một cây cổ thụ to lớn dễ chừng phải vài người ôm mới hết ṿng, tỏa những dây leo chằng chịt xuống tận gốc…Từ ngọn cây lao xao tiếng chim ca hót và trên cành cây lũ khỉ thi nhau chuyền cành. Hai chiếc F100 đă xong nhiệm vụ, trả lại yên tĩnh cho núi rừng, chỉ c̣n thi thoảng tiếng súng báo hiệu hay liên lạc của địch quanh đây. Âm thanh quen thuộc của Covey đang trở lại. Tiếng trực thăng khiêm tốn theo sau…Giai đoạn hai sắp được thực hiện. Ngồi nghỉ chúng tôi binh thản xem tuồng…Phút chốc đoàn trực thăng đă ở trên đầu. Hai chiếc Huey Gunship và bốn chiếc UH1 Huey được biệt phái từ Không quân Mỹ, dáng bè to, thấp sơn mầu ghi đậm truyền thống Không quân.Trận xạ kích bắt đầu rocket, tiếp sau khẩu 20 ly nổ ḍn vào vị trí mà hôm qua chúng tôi xâm nhập. Sau đợt xạ kích thứ ba, một chiếc Huey tách đàn lao xuống. Hỏa lực trên Gunship hộ tống văi đạn như mưa…Bằng suy đoán, theo tiếng trực thăng mà khi thấy khi không, diễn tiến tuần tự như quen thuộc và h́nh ảnh hiện lên trong trí chẳng mấy khác với tận mắt chứng kiến…Trực thăng đang dần lên trông thấy rơ bốn Biệt kích đang ṭn teng trên dây câu. Gunship thứ hai đang đổ xuống những thép và lửa cùng tiếng phóng rocket xèn xẹt… Bốn Biệt kích đă an toàn trên cao. Đoàn trực thăng đang lập đội h́nh để bay về căn cứ với bốn Biệt kích… Bằng h́nh nộm… Chắc chắn họ sẽ mang cất lại vào trong kho… Chúng tôi nghe thấy xung quanh súng bắn truyền tin cùng lúc của địch…Kế nghi binh đă có hiệu quả. Địa thế hiểm trở bởi đá và dốc dưới những tàn cây cao x̣e rộng, đường di chuyển mỗi lúc một lên cao làm tŕ nặng đôi chân, mặt trời vào trưa, ánh sáng chỉ đủ xuyên qua kẽ lá bởi làn gió lay động trên tàn cây, tạo sự lung linh, lấp lánh. Lẫn trong cái không gian mờ ảo ấy là những làn gió lạnh buốt từ dẫy đồi thấp thoai thoải chạy dài xa tít dưới chân… Một bóng mây đen xuất hiện di động dần lên in trên tầng cây xanh thẫm từ phía đồi ngang bên. Trung sĩ Quang thay Châu đi đầu, bốn đứa tôi lặng lẽ tựa bóng ma trơi di động trong cái âm u, tĩnh lặng quanh âm thanh huyền ảo của núi rừng. Trung sĩ Quang đưa tay ra dấu ngừng lại. Tiếng người ho nghe một rơ, rồi tiếng tṛ chuyện dần đi lên. Bây giờ đă nghe rơ bước chân “Này Thái, câu ǵ mà cậu vẫn thường ngâm của ông Quang-Dũng, tớ nghe hay lạ ngâm lại đi cho tớ nhớ…” Mắt trừng gởi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm Tiếng ngâm trầm buồn, cảm xúc…Tại nơi hiu quạnh này, chúng tôi nghe không phải chỉ một lần, nhưng ba lần ngâm lại trầm bổng, nhỏ dần theo bước chân, gío chen vào, tiếng núi rừng hào nhịp vào mộng mơ đời thường. Cái sự buồn uể oải trong chất giọng gần như vuột khỏi ước mơ…Xem ra chỉ c̣n sự tẽn ṭ…Nuốt nước miếng! Sau khi hội ư, toán quyết định lên thám sát con đường. Thiếu úy Điệp và tôi nhẹ nhàng tiến lên, được khoảng bốn, năm mét một con đường quá là rộng ập vào mắt. Lá cây rừng không phủ hết được mặt đường, dấu vết bánh xe đạp và dấu chân đi dép ấn xâu xuống mặt đường c̣n in rơ… Điệp lấy vội máy ảnh ra chụp… Rút về, bàn tính, không c̣n cách nào khác sau khi đă căn lại bản đồ. Toán vượt qua con đường. Ngồi nghỉ mệt bên tảng đá, có tiếng hú sau lưng từ con đường cất lên, theo sau là những lao xao tiếng người nói cười đùa giỡn… Nắng quá trưa tự dưng in rơ trên tàn cây cao rậm, phút chốc tắt đi trả lại mầu xanh đen thẫm, bên dưới đồi một làn mây trắng mỏng như cố nhô lên…Nghĩ bụng càng nhanh càng tốt chúng tôi vội rời xa con đường. Súng địch bắn báo hiệu cho nhau âm vang hẳn núi rừng… Một áp lực đang đè nặng mà chả ai bảo ai đều thể hiện trên gương mặt. Toán cố di chuyển thật êm cả buổi chiều bằng sự cẩn thận, trong trạng thái bất an, nôn nóng. Trời tối mờ mờ, chúng tôi ngồi ăn cơm và nghe động tĩnh. Thấy êm, di chuyển kiếm chỗ ngủ đêm quanh một tảng đá. Trung sĩ Quang đă gài xong trái ḿn Claymore, cũng là lúc bóng đêm bao trùm. Bôi thêm thuốc trừ muỗi, quanh đây chỉ c̣n tiếng côn trùng và tiếng thú từ xa vọng lại… Kéo áo đi mưa đắp lên người tôi cố để đi vào giấc ngủ bằng h́nh dung bầu trời xanh ngắt, cao tít ngàn sao…Trước lúc ngủ, nghe thấy quanh đây có tiếng trở ḿnh ,thở dài… Một con chim lợn đi ăn đêm, tiếng kêu thê lương. Thức dậy vào lúc trời c̣n tối, duỗi chân cho đỡ mỏi rồi nằm nghe gà gáy. Một làn gió đưa cái lạnh ập đến, bất giác rùng ḿnh. Trong cái tỉnh lặng đen như mực bao quanh, tự nhiên tôi co người lại tay cố kéo đắp chặt thêm chiếc áo mưa, giật ḿnh v́ tiếng cười như ma trêu phát ra từ chỗ ngủ của Châu, tức ḿnh tôi chép miệng ” Mẹ lại mơ thấy con ghệ nào rổi “Âm thanh tiếng cười như xoáy vào khoảng không rồi dội lại tạo một nỗi kinh dị trong trí mà tôi muốn thu xâu dán người sát đất… Đă có tiếng cựa ḿnh thức giấc của đồng đội và tiếng Quang lầm bầm “Đù mẹ, ngủ cười chi rứa…” Theo sau là cái đá chân… Thêm một tiếng ú ớ nữa Châu mới tỉnh bật dậy. Cảnh vật mờ mờ rồi rơ hẳn, phút chốc tạm quên những suy nghĩ vẩn vơ. mọi người lục đục đun nước chế vào bịch gạo ăn trong ngày xong pha cà phê…Hút thuốc trong áo mưa trùm sát đất… Trung sĩ Quang vừa tháo xong trái ḿn Claymore. Điệp đưa bức điện tin cho tôi và đang cùng Châu tính hướng đi. Tôi nhắc Quang nhớ gài lại hai trái ḿn M14 trước khi di chuyển để chống theo dơi… Toán lên đường cũng vào lúc mặt trời lú lên đỉnh núi mờ từ xa… Máy bay đă lên bao vùng, tiếng động cơ quen thuộc từ hướng đông vọng lại. Tôi bật máy chờ đợi. Tiếng gọi từ Covey vang trong máy… Đại úy Vỹ (Nguyễn-cao-Vỹ) trên phi cơ. Chuyển ngay bức điện. Toán chúng tôi ngồi chờ lệnh. Tiếng súng nổ phát một tứ phía truyền tin cho nhau… Đáng chú ư là hướng mà toán dự định đi tới. Tiếng gọi của Đại Úy Vỹ lại vang lên. Tôi nhận bức điện và chuyển ngay cho mọi người “Tiếp tục nhiệm vụ thám sát, yên tâm máy bay ứng chiến 100%” Vậy là đề nghị oanh kích đă không được chấp nhận… Chiếc Covey đă bao vùng khác, tiếng động cơ nghe rất nhỏ. Toán tiếp tục vào mục tiêu… Đàn chim bay xà xuống rượt đuổi nhau rồi lại vút lên cao. Đường dốc và đá lởm chởm đă làm sự di chuyển thêm khó khăn. Lắng tai nghe, gần như có tiếng động cơ xe chạy phía sau. Thiếu úy Điệp ra lệnh dừng lại để nghe ngóng lượng t́nh h́nh. Qủa đúng, tiếng động cơ mỗi lúc một rơ. Một tiếng gầm rú như xe đang lên dốc mà chở nặng… Ngồi bất động bên một gốc cây, chúng tôi im ĺm chờ đợi t́nh h́nh… Chính xác là trên con đường hôm qua. Địch đang gọi nhau, lao xao bên cạnh tiếng ́ ́ nặng nề của xe. Con đường nghe ngâm thơ ngày hôm qua, giờ đang náo nhiệt. Vẻ chậm chạp di chuyển của địch làm chúng tôi sốt ruột…Ánh sáng từ cao chiếu xẹt tia nắng bởi luồng gió lốc ào ào trên tàn cây. Toán quyết định trụ lại để xem chừng hướng đi tới của đoàn xe địch. Tiếng xe và tiếng người mỗi lúc càng gần như sắp đâm thẳng vào chúng tôi. Con đường cong ṿng ra sườn núi. Thấp thoáng đă thấy cành lá di động theo tiếng xe. Mọi cặp mắt chúng tôi chăm chú theo dơi và rồi đến một khoảng cây thưa thấp. Mầu áo xanh bộ đội ḥa cùng cây lá như bóng âm binh nhảy múa. Chúng tôi giật ḿnh v́ đang ở sát bên con đường mà không biết… Hai chiếc xe đă đi qua và đang có vẻ lại lên dốc ḥa lẫn tiếng ḥ dô như người đang trợ lực cho xe. Thiếu úy Điệp đang ghi chú trên bản đồ đánh dấu vị trí con đường. Tiếp tục di chuyển trong tiếng xe nhỏ dần… Một con đường vận chuyển ngang sườn núi hướng Nam Bắc, chân bước mà ḷng cứ măi nghĩ và đặt ra nhiều giả thuyết… Áp lực thật nặng nề, bởi lâu lâu tiếng người hú gọi nhau… Mạn rừng này dễ di chuyển, nhưng khó thở… Một con chim xà xuống tíu tít liên hồi như gặp ǵ cấp bách. Châu và Điệp cùng ngồi xuống tay ra hiệu dừng lại. Tiếng người ho… Đúng như dự đoán, con chim trên cành gặp khách lạ. Một giọng người cất lên trong hai tay để sát miệng làm loa “Hú hú Mấm ơi, về ăn cơm” và rồi lại quay sang hướng khác lập lại, giọng đi về phía trước. Tiến thoái lưỡng nan… Bên đông là con đường xe, bên tây là địch…Chỉ c̣n liều mạng tiến lên. Tôi ra dấu ở đây nguy hiểm rồi phất tay đi về phía trước. Đường đi bị chắn ngang bằng những tảng đá to lớn dị thường cao bằng nóc nhà… Như lạc vào mê cung, toán dừng lại quan sát động tĩnh. vẻ yên lặng giờ này nghe rơ tiếng thở của bốn người. Một hồi kẻng vang lên không xa, rồi tiếng người lao xao nói cười. Tôi bảo Điệp soạn ngay bức điện báo t́nh h́nh và yêu cầu oanh kích… Nh́n địa thế nơi đây chiến đấu tốt. Tôi bật máy liên lạc Covey… Gọi đến năm sáu lần, tiếng Covey trả lời có vẻ hơi yếu, có lẽ đang bao vùng ở xa. Tôi chuyển bức điện yêu cầu rồi chờ đợi… Ăn vội bữa cơm, bên dưới kia tiếng lao xao không dứt như càng lúc tụ hội càng đông. Lại tiếng kẻng vang lên theo sau tiếng hô ǵ đó… T́nh h́nh lúc này, chúng tôi có vẻ quen dần, không c̣n sợ để đổ mồi hôi như trước… Nửa tiếng trôi mau, trong máy Covey đang gọi. Tôi trả lời và nhận ngay một điện tin… Điệp đang dịch lại bằng khóa mật mă… Lời yêu cầu được chấp nhận. Toán chuẩn bị mục tiêu oanh kích trong thời gian ba mươi phút nữa… Thế có nghĩa là sự phối kiểm tin tức tức tại Trung-tâm hành-quân… Tin giữa toán và các máy từ Trung-tâm tác-chiến điện tử phù hợp nhau… Toán di chuyển nhanh t́m địa điểm thích hợp. Hai chiếc F4 đang bay ṿng trên cao cũng là lúc chúng tôi có được địa điểm chiến đấu tốt và dễ dàng ra hiệu cho máy bay. Chiếc Covey đang bay trên đầu gọi toán xin mở cửa sổ. Tôi ra hiệu cho Điệp… Ánh sáng chiếu thẳng từ gương lên máy bay. – Indian Alpha (tên toán) Tôi thấy bạn rơ, xin cho ngay mục tiêu. – Kilo hotel (tên Covey) đây Indian Alpha. Mục tiêu hướng Tây cách chúng tôi ba trăm mét. – Indian alpha, hăy cho tôi biết đă đúng mục tiêu chưa? Covey xà xuống trái rocket được bắn ra và một cột khói trắng bốc lên. Máy bay đang nghiên lao vút lên…Tiếng lao xao của một số đông người kèm theo tiếng kẻng đánh gấp rút, người ta đang hú gọi nhau cùng lúc những đàn chim bay táo tác t́m chỗ ẩn. – Kilo hotel, kéo về hướng đông một trăm mét. – OK Indian alpha, ẩn núp cho kỹ, mục tiêu rất gần với anh… Cho panel đỏ hồng. – OK Kilo hotel, xin cho tác chiên, toán sẵn sàng, đă có panel theo yêu cầu. Covey bắn trái rocket thứ hai, tiếp ngay sau chiếc F4 lao xuống gầm thét loạt đại bác và cắt một lúc hai trái bom. Kinh thiên động địa, tiếng nổ tạo chấn động đến tức cả ngực, khói lửa bao trùm trước mặt và từ từ cuộn lên cao. Chiếc F4 đang trên cao như xem kết quả và chờ lệnh Covey… Bất chợt sau lưng tiếng ầm vang, xẹt qua đầu ngọn cây và hàng bom trút xuống bên dưới lửa khói lan tràn… Loạt napalm đang thiêu hủy mục tiêu, theo sau là những tiếng hét la vang dội góc rừng và tiếng súng của địch bắn lên… Chiếc F4 vừa ghim thêm ba trái bom và đang lao lên bằng tiếng gầm rú của động cơ phản lực… Giật ḿnh nghe rơ tiếng súng bắn phầm phầm, nhát gừng, chậm răi không bắn từng loạt… Nh́n ra chiếc F4 kéo theo sau hàng khói đen và ḱa chiếc dù đang ṭng teng kéo chiếc ghế của phi công. Một tiếng nổ vang trời dội đến, ngoài xa cột khói bốc cao. – Kilo hotel đây Indian alpha, khẩu pḥng không đang ở hướng bắc cách chúng tôi 300 mét. – Indian alpha nhận rơ và sau đây cho biết ư kiến. Đảo nửa ṿng chiếc Covey từ trên cao phóng trái rocket xuống mục tiêu vừa được chỉ dẫn. Nh́n làn khói bốc lên tôi ước lượng. – Kilo hotel, kéo về hướng nam 150 mét. – Indian alpha, quá gần vị trí của bạn, bạn thấy thế nào cho biết. trả lời… – Kilo hotel, không sao đă có những hàng đá bảo vệ…Chơi đại đi. Thế rồi theo sau trái khói chỉ điểm lần hai, chiếc F4 c̣n lại mở một lúc bốn trái bom… Liên tục tiếng tiếng nổ động trời… Một luồng ḱnh lực mạnh khủng khiếp dồn ép, dội đến…Rất khó thở và đau đau ở ngực…Nhưng trước bom nổ, tiếng pḥng không rất rơ, nặng nề và tṛn ấm vang dội. Đảo một ṿng trên cao chiếc F4 như người lữ hành ngắm cảnh nh́n Covey đang săn sóc người phi công mới đáp đất… Nhàn nhă chẳng bao lâu…Chiếc F4 đang hung hăng như điên tiết lao xuống. Một loạt đại bác và thêm những trái bom thả ra từ bụng… Máy bay cứ tầm thấp mà bay rồi mới tăng tốc vụt lên. Bên dưới lửa văng xa lan rộng. Chỗ nằm của chúng tôi, đột nhiên sức nóng lan tỏa nhanh, tôi c̣n cảm thấy tóc trên đầu nong nóng… Thời gian như ngừng lại, trận địa bỗng yên tĩnh lạ…Gió ở đâu lốc từng cơn. Mặt trời bị che bởi cơn mây đen. Ánh sáng phản chiếu từ chiếc Covey đang săn sóc người phi công, trên trời cao chiếc F4 ṿng ṿng và bên dưới này chúng tôi hoang mang chờ diễn tiến. – Indian alpha đây Kilo hotel, tôi sẽ đến với bạn trong tích tắc, phiên làm việc mới của tôi…Bạn đă nhận ra tôi chưa? Tiếng nói của Đại úy Vỹ (Nguyễn cao Vỹ) trên phi cơ và chiếc O2 xuất hiện theo sau bốn trực thăng càng lúc càng gần. Hai A1 Skyraider đồng hiện diện…Chiếc F4 mất bạn đang lẻ loi trên cao, có thể anh ta cố chờ xem trực thăng cứu viên phi công để yên tâm trở về. Một chiếc F100 vừa lên từ vị trí phi công lâm nạn và cái bóng trực thăng đang lên cao. Viên phi công đă được cứu. - India alpha, xin cho biết t́nh h́nh. – Kilo hotel tôi đă bị lộ diện, yêu cầu triệt xuất v́ áp lực địch bao quanh. Cho đánh phá mục tiêu hướng tây 300 mét và mục tiêu hướng bắc 300 mét. Covey lao xuống mục tiêu hướng Tây nh́n trái khói trắng bốc lên, tôi gọi. – Kéo về hướng Đông 100 mét. Trái khói thứ hai đúng mục tiêu… Chiếc F100 xuống với thép và lửa bao trùm khu vực và địch đồng loạt súng nổ bắn đuổi theo máy ba. Chiếc O2 Covey vừa hoàn chỉnh mục tiêu thứ hai và đang bốc ngược lên. Tiếng đại bác 20 ly ḍn dă và rồi từ chiếc A1 Skyraider thêm loạt bom chùm (cluster) như đàn ong bị vỡ tổ dăng dăng lao chụp xuống mục tiêu… Covey hoàn thành xong màn chỉ điểm đang ung dung trên kia điều nghiên oanh kích. Tôi vẫn nghe rơ mọi điện đàm giữa Covey và máy bay oanh kích, đôi lúc có tiếng của Đại úy Vỹ chen vào… Trận địa lại trở nên sôi động. Gio hất lên quật lại cái mùi khét của bom đạn. Tiếng nổ dữ dội động địa của bom hủy diệt và trước mặt hướng bắc lửa chạy dài bởi bom napalm. Chúng tôi nằm đây chứng kiến xung quanh cảnh địa ngục và địa ngục nếu có th́ chắc cũng ch́ như thế. – India alpha, tôi đă trúng đạn… Hoảng hốt ngẩng đầu nh́n lên, chiếc O2 như một cột khói đen x́ lao thẳng xuống đất. Không thấy cái dù của phi công… Qủa thật nh́n cuộn khói lúc máy bay rớt… Bị bắn ngay đầu, họ chẳng kịp nhảy dù… Không như loại OV10 sử dụng loại ghế thoát hiểm tự động. Chiếc O2 trường hợp khẩn phi công phải mở cửa nhẩy dù… Sự bạo tàn của cuộc chơi chiến tranh, với ai cho là thích thú, riêng tôi lúc này ḷng chán nản, dạ hoảng kinh như đang ngồi trên lửa. Mọi liên lạc đă bị cắt đứt. Toán nằm bẹp chịu trận…Hai bên mục tiêu ba máy bay oanh kích vẫn tiếp diễn những màn bổ nhào trút xuống bom đạn. Tôi tự hỏi và nghĩ lại, không nghe tiếng pḥng không sao chiếc O2 vô cớ lại bị trúng đạn…Một bí mật nào đó cần được sáng tỏ bởi nhân viên pḥng Hành-quân… Ba máy bay lúc này thay đổi chiến thuật… Không oanh kích dồn dập mà quan sát kỹ mục tiêu rồi mới tấn công. Hiển nhiên cũng như chúng tôi đang chờ một sự ǵ đó… Hướng tây sau cái bốc lên như mũi tên, máy bay F100 dựng đứng rồi tiếng nổ loại bom 500 cân rung chuyển mặt đất bắn tung lên rất cao bụi đất và khói lửa mịt mù… Tiếp sau hàng loạt tiếng nổ long trời to rồi nhỏ, nhỏ rồi lại to xen kẽ… Kho đạn dược của địch trúng bom phát nổ… Mặt đất liên tục rúng động, áp lực không khí đè nặng gây khó thở. Thiếu úy Điệp mặt xanh tái ngửa cổ hít thở, miêng giơ ra cái răng khểnh như nanh. Trần Quang đă đen giờ lại đen thêm. Châu tay ôm lấy ngực mặt nhăn nhó… Tiếng xè xè trong máy làm tôi bừng tỉnh, sau cái ảo ảnh dấu hết… Mặc, tôi đứng bật lên tay chân làm động tác thể dục, hít thở nhẹ nhàng cảm thấy thoải mái… Ngồi xuống tiếp tục chịu trận. Trong máy đă có tiếng gọi tên, chụp vội cái ống nghe tôi trả lời… Một sự trấn an, năm phút nữa tôi sẽ đến… Kho đạn của địch vẫn ầm vang không dứt thi thoảng có tiếng nổ lớn rung động…Hai chiếc A1 vẫn dán sát vào mục tiêu phía bắc đặt súng pḥng không…Nhưng tới giờ phút này chúng tôi không c̣n nghe tiếng súng pḥng không. Họ đang cố gắng t́m vị trí đặt súng, chiến thuật tấn công và phát hiện đang được áp dụng. Covey đang trên đầu gọi tôi. “India alpha đây Kilo hotel, chuẩn bị triệt xuất bằng câu dây…rơ trả lời.” “Kilo hotel, toán đă sẵn sàng”. Hai đai dây dù qua háng đă được chúng tôi gài vào đúng vị trí của nó, trở thành liền lạc ôm lấy người từ vai đến qua mông…Ngưới ta thiết kế riêng cho cái dây đeo đạn và b́nh nước bằng dây đai dù dẹp bản, mà khi sử dụng để câu dây th́ chỉ gài móc hai sợi dây dù qua háng. Đoàn trực thăng bay trên cao, thêm hai A1 đang bay song song như anh em sinh đôi. Sáu Kingbee, bốn UH1 Huey và hai Huey Gunship… Covey bay thấp đang cố phát hiện xác chiếc O2… Quần đảo nhiều ṿng, hai chiếc Gunship đang xạ kích loạt rocket đầu tiên xuống mục tiêu phía bắc. Một chiếc Huey tách đàn. theo sau chiếc Gunship yểm trợ đến thẳng chỗ chúng tôi. Từ trực thăng bốn sợi dây câu được thả xuống. Móc hai cái móc sắt từ hai vai vào móc dây câu… Thiếu úy Điệp nh́n kiểm soát xong, ra hiệu trực thăng bốc lên… Loạt đại liên và đạn M79 (40ly) tự động cày phá dưới đất… Từ bầu trời nh́n về phía Covey vẫn đang có vẻ chưa t́m thấy xác chiếc O2. Sáu chiếc Kingbee bay trên cao như chờ lệnh… Thế rồi càng lúc càng xa theo trực thăng bay thả chúng tôi về nơi xuất phát… Căn cứ Quảng-trị. Trực thăng Kingbee đang lần lượt đáp xuống băi. Đổ xuống Trung đội gác đài tiếp vận Hickory… Người ta điều động ngay Trung đội không tác chiến này vào việc gấp rút lấy xác phi công bị rơi. Toán chúng tôi được lệnh trở về CCN Đà nẵng, sáu chiếc Kingbee sẵn sàng đưa chúng tôi về… Hỏi người xạ thủ (Mê vô) trên Kingbee. Anh ta nói rằng rừng quá rậm nên chưa thể lấy xác người phi công và Đại úy Vỹ, sĩ quan không thám… Một nỗi buồn chợt đến như thay lời vĩnh biệt Đại úy. Hài Đen Chiến Đ̣an 1 Xung Kích |
Pḥng Thủ Mỹ Chánh - Quảng Trị
3 Attachment(s)
1. Thiếu Tá Huỳnh Văn Phú sinh năm 1940 tại Nha Trang, khóa 19 Vơ bị Đà Lạt. Khóa 19 là khóa t́nh nguyện về Thủy Quân Lục Chiến đông nhất, với 30 sinh viên sĩ quan kể cả thủ khoa Vơ Thành Kháng. Thiếu úy Huỳnh Văn Phú về Tiểu đoàn 5 TQLC làm Trung đội Trưởng năm 62 rồi nhiều năm sau giữ chức Trưởng Pḥng Tâm Lư Chiến TQLC cho đến 30 tháng 4. Sau 75 tù đày từ Nam ra Bắc, Thiếu Tá Phú c̣n là tác giả đă nhận giải thưởng Phóng sự Tiền phong 1972 do Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị QLVNCH trao tặng. Tuy nhiên, bút kư Chiến Trường Trị Thiên và Những người lính Mũ Xanh in tại Sàig̣n tháng 4-1975 đă không kịp phát hành. Thiếu Tá Phú định cư tại Philadelphia từ 1990. Cùng với tuần san Trẻ, xin phép ông cho đánh máy lại Thủy Quân Lục Chiến đă pḥng thủ Mỹ Chánh như thế nào trong Tuyển tập Bút kư Phóng sự Chiến trường 1972 của Nxb Văn Nghệ Dân Tộc in năm 73 mà tôi may mắn t́m lại được. Gịng Sông Mỹ Chánh Điều mà ít ai ngờ đến đă biến thành sự thật, một sự thật tàn khốc trong cuộc chiến tranh diệt chủng hiện tại. Đó là việc Hà Nội công khai xua quân tràn qua con sông ngăn cách Bến Hải với hàng ngàn xe tăng, đại pháo 130 ly và hỏa tiễn xâm lăng miền Nam. Và nếu chiến cuộc không bùng nổ lớn như thế, cái tên Mỹ Chánh cũng như bao nhiêu địa danh xa xôi khác trên phần đất khốn khổ này đă không trở thành quen thuộc với mọi người như hiện tại. Vào những ngày đầu tiên của tháng 4-72 khi trận chiến bùng lên dữ dội, các căn cứ hỏa lực của ta nằm dọc theo khu phi quân sự bị thất thủ, sự sinh hoạt ở Mỹ Chánh vẫn b́nh thường. Người ta vẫn tấp nập đi đi về về, và gịng nước vẫn lặng lờ chảy ra Phá Tam Giang. Và cũng không ai có thể nghĩ rằng một tháng sau đó, con sông Mỹ Chánh đă đi vào huyền sử đấu tranh của dân tộc. Bây giờ th́ bất kỳ người lính Thủy Quân Lục Chiến nào cũng có quyền hănh diện khi nhắc đến địa danh đó. Nơi đây gót giày xâm lăng của quân Cộng Sản đă chùn bước và đă bỏ lại dọc theo gịng sông đó hàng trăm chiếc xe tăng đủ loại, hàng ngàn xác chết của đồng bọn khi chúng mưu toan tiến sâu hơn về phía Nam. Trong bài viết này tôi sẽ ghi lại một cách tóm lược trong trường hợp nào mà con sông Mỹ Chánh trở thành pḥng tuyến bảo vệ cố đô Huế từ sau cuộc lui binh của Sư đoàn 3 Bộ Binh ra khỏi tỉnh Quảng Trị ngày 1-5-72 cùng những diễn biến tổng quát và những người lính TQLC đă chiến đấu như thế nào để giữ vững pḥng tuyến này. Ngày 15-4 tôi từ giă Sàig̣n ra đơn vị trong khi học “nửa chừng” khóa học “điều chỉnh” rất ư là “Cultivateur” tại trường Bộ binh Thủ Đức, một quân trường mà buổi sáng ngủ dậy đă có gánh hàng rong bán bánh cuốn, bún riêu la ơi ới ở đầu giường, buổi trưa th́ đậu hủ và chè cháo loạn xạ. Khoảng thời gian này, từ 10-4 đến 30-4-72, Lữ đoàn 369 TQLC với các Tiểu đoàn 3, Tiểu đoàn 5, Tiểu đoàn 7 và Tiểu đoàn 9 TQLC đang hoạt động ở phía Tây và Tây Bắc Mỹ Chánh trong một khu vực rộng chừng 200 cây số vuông gồm các căn cứ Nancy, căn cứ Barbara và căn cứ Động Ông Đô nhằm ngăn chặn sự xâm nhập của Cộng quân từ mặt Tây Nam Quảng Trị. Đơn vị tôi th́ đóng tại căn cứ Nancy nằm bên trái Quốc Lộ 1, cách cây cầu Mỹ Chánh chừng một cây số về phía Tây Bắc, sau đó di chuyển ra đóng ở một ngôi làng nhỏ, kín đáo sát bên cạnh đường rầy xe lửa. Gần một tháng trời chịu trách nhiệm khu vực trên, các đơn vị thuộc Lữ đoàn 369 TQLC đă chiến đấu trong những hoàn cảnh cực kỳ gian khổ. Hàng ngày chạm địch liên miên từ cấp tiểu đoàn trở lên, đại pháo 130 ly của địch nă như mưa bấc, mọi công tác tải thương đều phải di chuyển bằng đường bộ, khiêng hoặc cáng đi trên một quăng đường dài gần 10 cây số đường núi v́ trực thăng không có. Nhưng dù thế nào mặc ḷng, các chiến sĩ TQLC cũng đă chiến đấu hăng say trong hoàn cảnh eo hẹp đó và mọi cố gắng của địch tiến quân ra vùng đồng bằng thuộc quận Hải Lăng đều bị chặn đứng hoàn toàn. V́ ai cũng hiểu rằng nếu để địch xâm nhập th́ Quảng Trị bị cô lập ngay và Quốc Lộ 1 bị cắt đứt. Do đó địch quân cay cú, hằng ngày chúng gia tăng pháo kích các đơn vị của ta. Các pháo đội của Tiểu đoàn 1 Pháo Binh TQLC phải thay đổi vị trí đặt súng ngày một, nhưng di chuyển đi đâu cũng đều bị chúng pháo theo. Tiền sát viên của địch bám rất sát mọi sự xê dịch, di chuyển của ta. Lâu lâu quân ta bắt được một vài tên có máy móc vô tuyến đàng hoàng nhưng cường độ pháo kích của địch vẫn không hề suy giảm. Tôi đă từng nghe những tiếng nổ, tiếng rít của các loại hỏa tiễn 122 ly, 240 ly, nhưng lần này tiếng rít xé gió đi trong không khí cũng như tiếng nổ của loại đại bác 130 ly (bắn xa 27 cây số do Nga-Sô chế tạo) nghe thật khiếp. Tiếng rít xé gió bay qua đầu, tôi có cảm tưởng như là tiếng phản lực bay trên trời. Rồi tiếp theo là tiếng nổ thật lớn nhưng ấm, mảnh văng tung tóe rơi trên những mái nhà tôn như có ai lấy thật nhiều đá ném lên. Mảnh nào mảnh nấy to bằng cái chén và văng ra xa trong ṿng bán kính 200 thước. Chẳng có ai biết chúng đặt súng ở đâu cả (biết th́ c̣n nói làm chi nữa) nhưng nghe được tiếng départ ở đâu trong dăy núi xa xa rồi sau đó khoảng chừng 5, 7 giây là đạn bay đến nổ ầm rồi. Thường th́ chúng cứ bắn hai quả một. Lính tráng hễ nghe hai tiếng départ ùng ùng th́ la to “Một cặp” đó các anh em ơi! Thế là mọi người chui lẹ vào hầm. Địch bớt pháo th́ chui ra. Cứ chui ra chui vào như thế suốt ngày. Cái hoạt cảnh lên hầm xuống hầm có lẽ tôi chẳng bao giờ quên được, nhất là khi một mảnh đạn văng rơi trên cái mũ sắt của tôi đánh cồng một tiếng như tiếng chuông chùa. Ôi ta thương cái mũ sắt biết chừng nào! Có hôm mấy trăm quả nă vào đơn vị của tôi, ôi thôi tơi bời hoa lá nhưng khi kiểm điểm lại th́ chỉ có 1 chết và 3 bị thương v́ đạn rớt trúng ngay hầm. Giữa lúc bị pháo kích, ai nấy ở trong hầm tinh thần căng thẳng nhưng khi nghe một quả bị rớt không nổ th́ mọi người lại vỗ tay cười. Tôi cũng không biết họ nghĩ sao mà lại cười như thế, có lẽ cười v́ cái khôi hài của chiến tranh tự nhiên khi không bắn giết nhau. Riêng tôi th́ tôi thương cái hầm của tôi hết sức, hôm nào đổi vị trí đóng quân, tôi không tiếc cái ǵ hết chỉ tiếc có cái hầm mà mấy thầy tṛ, anh em tôi đă đào đắp công phu. Nhiều khi nh́n nó, tôi nghĩ đến sự nhiệm mầu của đất. Đất nuôi sống con người, cứu văn con người và khi người ta buông xuôi cũng trở về với 3 thước đất. Trên cơi đời ô trọc và buồn phiền này có ǵ tồn tại hơn là đất cát. Và đó có lẽ là cái ư nghĩa sau cùng của con người, nhưng buồn thay không mấy ai để ư đến, chỉ lo đi t́m những cái ảo ảnh, danh vọng để lừa dối, phản bội và bắn giết nhau. Hành Lang Máu Khoảng thời gian đó, ngày cũng như đêm đối với tôi thật dài. Ngày th́ nóng, nóng tàn nhẫn. Trời không một cơn gió. Mồ hôi vă ra như tắm. Bên tai lúc nào cũng nghe tiếng súng, tiếng pháo của ta và tiếng pháo của địch xen lẫn những tiếng súng nhỏ của các đơn vị đang đụng độ. Ban đêm th́ trời trong, sao giăng mắc. Chùm Đại Hùng Tinh với ngôi sao Bắc Đẩu in rơ trên nền trời, c̣n chùm sao Hiệp Sĩ nữa, cả hai đều chỉ về phương Bắc, nơi đó thành phố Quảng Trị đang cố đẩy lui các cuộc tiến công của Cộng quân. Hỏa châu thả sáng đầy trời, thỉnh thoảng ở phía Đông những lằn lửa xẹt lên ngang bầu trời rồi vụt tắt. Có lẽ đó là Hải Pháo đang bắn đi từ ngoài biển, đôi khi tôi cũng thấy những cụm lửa thật to của chiếc hỏa tiễn SAM của địch bắn lên các phi cơ. Cho đến giờ phút đó, pḥng tuyến ở phía Tây Mỹ Chánh do TQLC trấn giữ vẫn vững như bàn thạch. Và không một ai nghĩ rằng Quảng Trị sẽ bị thất thủ cả. Nhưng đùng một cái, trong các ngày 28, 29 và 30-4, Cộng quân pháo kích dữ dội vào thành phố Quảng Trị. Thế là dân chúng hoảng hốt, bồng bế nhau chạy đi về Huế lánh nạn. Không thể nào kể hết những thảm cảnh của đám dân chạy nạn đó. Trong hai ngày 29 và 30-4, trên quăng đường dài từ Quảng Trị đến Mỹ Chánh, người ta đi chen chúc nhau chật cả quốc lộ từ sáng đến chiều vẫn chưa dứt. Thôi th́ đủ các loại xe lớn nhỏ nối đuôi nhau đi nườm nượp về Nam. Nhưng người đi bộ gồng gánh vẫn nhiều hơn. Dưới mắt tôi, đó là một “con rắn người” khổng lồ ngoằn ngoèo dài đến hàng mấy chục cây số. Đây, một người thanh niên cơng một người mù vừa đi vừa thở, đàng kia là một người đàn bà gánh đôi thúng, trên đó một em bé chừng 4 tuổi đang vốc cơm ăn ngon lành. Chỗ khác, hết cả một gia đ́nh đang ra sức đẩy một cái xe ḅ chất đủ thứ áo quần, bàn ghế và một con heo nằm co quắp ở phía trước. Một ông già, h́nh như là chủ gia đ́nh, đang kéo chiếc xe một cách mệt nhọc. Chiếc máy ảnh cầm trên tay, tôi đến trước mặt ông và bấm một “bô”. Ông cố nở một nụ cười đau khổ. Không biết ông cười v́ được chụp ảnh hay cười v́ cảnh đời dâu bể này? Và trong ánh nắng hoàng hôn của ngày 29-4, một bà già có tật đang khấp khểnh đi nhờ chiếc gậy trên tay, cái bóng đổ dài trên mặt đường. Bà ta đi chừng mười bước th́ lại dừng. Xa hơn một chút, một ông già và hai cháu nhỏ đang ngồi thở dốc trên vệ đường. Ngay trước vị trí đóng quân của Tiểu đoàn 5 TQLC, các anh chiến sĩ đem mấy thùng nước ra để bên đường cho dân uống. Có anh đem cả phần gạo sấy của ḿnh chia cho những gia đ́nh đang đói lả. Dù sao, đây cũng là những người c̣n được ít nhiều may mắn v́ đă vượt về đến Mỹ Chánh. Một số lớn dân chúng bị kẹt trong vùng giao tranh giữa ta và địch tại cây cầu Bến Đá, 6 cây số bắc Mỹ Chánh. Đó là khoảng đường “hành lang máu” của hàng ngàn dân vô tội chết oan trong khi đi lánh nạn. Lợi dụng một lỗ hổng nhỏ do sự rút quân của Tiểu đoàn 7 TQLC để đi ra tăng cường mặt trận Quảng Trị, Cộng quân đă xâm nhập được cây cầu Bến Đá và từ đó chận đốt những đoàn xe chở dân chúng cũng như bắn giết dân chạy nạn không tiếc tay. Dân chúng đang đi trên đường th́ bị hàng loạt đại bác 130 ly ngă ra chết. Những cái chết vô lư bủa chụp xuống đời họ như những nỗi kinh hoàng. Họ có biết ǵ đâu. Có cả một chiếc xe bị bắn lật nhào xuống hố kéo theo 30 mạng người và cái hố đó là mồ chôn chính họ luôn. Trên khoảng đường này không có một gia đ́nh nào nguyên vẹn, kẻ mất người c̣n và thất lạc tứ tung. Đấy, sự nghiệp giải phóng của đoàn quân miền Bắc là như thế đó. Giải phóng người sống mau về bên kia thế giới, giải phóng tất cả sự nghiệp của mọi người trở về hai bàn tay trắng. Những h́nh ảnh đó, có lẽ suốt đời tôi không thể nào quên được. Mỗi ngày, tôi từ vị trí đóng quân ra ngồi trên con đường sắt, con đường mà ngày xưa xe lửa đă chạy ra đến Hà Nội, nh́n đám dân lũ lượt kéo nhau đi mà trong ḷng nghe chua xót. Tôi cố t́m trong đám người đi đó xem có ai quen thuộc không, nhưng không, không có ai cả. Tôi muốn chia sẻ những nỗi khổ đau với họ nhưng tôi đă hoàn toàn bất lực. ***** 2. Tháng 5-72, Thủy Quân Lục Chiến là hy vọng cuối cùng của Quân đoàn I. Cộng quân đă vượt Hải Lăng áp sát sông Mỹ Chánh. Trong chưa đầy một tháng tin tức chiến trường ập xuống như băo lửa. Cồn Thiên, Khe Gió, Ba Hô, Gio Linh, Cửa Việt đồng loạt thất thủ. Tồi tệ hơn nữa: Trung tá Phạm Văn Đính, trung đoàn trưởng Trung đoàn 56 VNCH mà về sau thành Trung tá Việt cộng đầu hàng tại Camp Carroll. Mất tấm khiên chắn phía Tây, Sư đoàn 3 Bộ Binh không thể giữ Đông Hà và Ái Tử. Với dân Thừa Thiên, an nguy trao hết cho người lính mũ xanh. Phần bút kư tiếp theo của Thiếu Tá Huỳnh Văn Phú ghi lại những ngày này. Bên này sông, bên kia sông Giữa đoàn người đi hỗn độn đó, Tiểu đoàn 5 TQLC tung quân lên cầu Đập Đá để giải vây áp lực địch. Tại đây, Tiểu đoàn 7 TQLC khi đi tăng cường cho mặt trận Bắc Quảng Trị vẫn c̣n bị kẹt lại hai đại đội ở khúc đường này. Hai đơn vị phối hợp nhau đánh bật địch quân về phía Tây, cuộc giao tranh kéo dài suốt ngày, các chiến sĩ TQLC đă thanh toán hết các phần tử địch vừa xâm nhập ở đây. Cho đến giờ phút đó, mặt trận ở phía Tây Mỹ Chánh vẫn vững như vách núi Trường Sơn, nhưng việc ǵ đă xảy đến. Ngày 1 tháng 5-72 các đơn vị tử thủ Quảng Trị rời bỏ thành phố di chuyển về Nam. Cuộc lui binh mà trước đó mấy ngày ít ai nghĩ đến đă thành sự thật. Và t́nh h́nh bây giờ đổi khác, Lữ đoàn 369 TQLC trở thành tuyến đầu ngăn chặn địch tại Mỹ Chánh, không c̣n một đơn vị bạn nào khác nữa. Bám sát các cánh quân của ta vừa di tản chiến thuật ra khỏi tỉnh Quảng Trị, Cộng quân lần tiến theo cho đến quận Hải Lăng. Tại đây, các đơn vị thuộc Lữ đoàn 369 TQLC một mặt “tiếp rước” các đơn vị bạn từ Bắc xuống, mặt khác cố đánh bật địch dội ngược trở lên. Nội trong buổi sáng ngày 1-5 Tiểu đoàn 9 TQLC đă dùng súng M72 hạ một lúc 9 xe tăng T54 của Bắc Việt chặn đứng hoàn toàn sức tiến của địch. Tiểu đoàn 9 và Tiểu đoàn 2 TQLC đă quần thảo với địch suốt trong ngày dài nhất đó với một mục đích duy nhất: Không cho chúng tiến thêm một tấc đất nào nữa kể từ khu vực này. Sau đó cây cầu Mỹ Chánh được giật sập ngay trong đêm và các đơn vị TQLC thiết lập một pḥng tuyến mới ở bên này con sông. Theo sát những diễn biến, tôi đă nghĩ rằng nếu ngày hôm ấy mà không có các Tiểu đoàn 2 và 9 TQLC kiên tŕ chận đứng được địch quân tại Mỹ Chánh giữa cơn ngặt nghèo đó th́ không biết chiến trường trong những ngày kế tiếp sẽ diễn biến ra sao và đến đâu. Một Nguyễn Kim Để của Tiểu đoàn 9, một Nguyễn Xuân Phúc của Tiểu đoàn 2 TQLC tại mặt trận Mỹ Chánh ngày 1-5 cũng như một Đỗ Hữu Tùng của Tiểu đoàn 6 TQLC trong trận “xa chiến lớn” tại căn cứ Phượng Hoàng ngày 9 tháng 4 là những đơn vị trưởng đă góp công không nhỏ trên chiến trường Trị Thiên suốt 60 ngày chiến đấu đẫm máu. Họ là những sĩ quan có đầy đủ kích thước, tài ba và mưu lược để chỉ huy những đơn vị cỡ trung cấp. Đại Tá Phạm Văn Chung, Lữ đoàn Trưởng Lữ đoàn 369, người chỉ huy trận đánh và đơn phương quyết định phải ngay tức khắc chận địch tại tuyến Mỹ Chánh cũng đă không tiếc lời khen ngợi hai đơn vị nói trên. (bây giờ Đại Tá Chung về Bộ Tư Lệnh Sư đoàn TQLC làm Tham Mưu Trưởng Hành Quân, Trung Tá Nguyễn Thế Lương thay thế). Buổi chiều, khi tôi rời Mỹ Chánh để về đóng quân tại Phong Điền, ánh nắng vàng vọt buồn bă ngả dài trên những dăy núi phía Tây lỗ chỗ những vệt xanh vệt trắng. Nhà cửa hai bên đường không một bóng người, quang cảnh thật thê lương. Đă nhiều lần tôi bắt gặp ḷng ḿnh lắng sâu trong cảnh vật bởi tôi đă đi trên cái hoang vắng đó. Trên con đường nhựa duy nhất một ông già với chiếc bị da đă ngả màu trên vai, đi âm thầm trong ánh nắng hoàng hôn sắp tắt. Ông già đă đi giữa buổi hoàng hôn của cuộc đời và hoàng hôn của đất trời. Nhưng ai biết được ông đi về đâu? Tôi quay về phía sau, bóng những người lính in lên trên nền trời đang dần dần đổi sang màu đen của bóng đêm. Xa hơn, về phía Bắc những cụm khói đen khổng lồ bốc lên cao cùng những tiếng nổ ́ ầm. Quảng Trị đă xa tầm tay! Ít ra trong phút này, niềm mơ ước có phút rỗi rảnh nào đó được “dzọt” lẹ về thành phố này uống một chai bia, ăn một tô bún đă không thể thành tựu được nữa. Và cái truyện Bên Kia Giáo Đường của tôi cũng tan thành mây khói, không biết đến bao giờ mới xong v́ nhân vật chính đă phiêu bạt ở phương nào rồi. Tôi cũng ước mong được trở lại căn nhà mà tôi đă trú đóng bên kia sông Mỹ Chánh, không biết để làm ǵ, v́ nơi đó không phải là quê hương của tôi nhưng tôi mong muốn như thế, sớm hơn. Niềm mong ước đó cũng giống như hàng vạn người dân Quảng Trị mong sớm được nh́n về gịng sông Thạch Hăn của họ. Nhưng tôi tin chắc rằng niềm mong ước của họ lớn lao hơn, to tát hơn. Trong buổi chiều đó, khi đi ngang qua cây cầu, tôi đă “tức cảnh sinh t́nh” và rất lẩn thẩn “mần” ra mấy câu “thi” thuộc loại siêu tự do, siêu khôi hài mà chỉ có những đại thi sĩ cỡ “khều mặt trời” mới mần ra nổi. Bài thơ như sau: Tôi ở bên này sông Mỹ Chánh Anh ở bên kia sông Đứng bên này sông Nh́n thấy bên kia Đứng ở bên kia Trông thấy bên này Lội ra giữa gịng sông Nh́n thấy cả hai bên Lặn xuống nước Chả trông thấy bên nào cả! Một quan niệm về pḥng thủ tấn công Đoàn xe chở chúng tôi rời Mỹ Chánh chừng 3 cây số về phía Nam th́ thay v́ chạy trên đường lại rẽ trái chạy trên khoảng đất song song với đường nhựa. Có lẽ khúc đường này bị đặt ḿn chưa sử dụng được. Đoàn xe chạy trên đường đất chừng 100 thước th́ ầm ầm, những tiếng nổ vang dội ở trước đầu xe, bụi tung bay mù mịt không trông thấy ǵ cả. Ngay quả nổ đầu tiên, trong trí óc của tôi lúc bấy giờ, tôi tưởng rằng đoàn xe đă bị địch phục kích và trong giây phút, tôi cố chờ đợi những tiếng đại liên xổ ra như kinh nghiệm cho thấy những lần bị phục kích. Nhưng may quá, không có đại liên và súng nhỏ. Rồi những tiếng nổ ́ ầm tiếp theo. Tôi nhận ra tiếng nổ ấm và rất quen thuộc của loại đạn M79. Tôi chợt yên tâm hơn, phía trước 3 chiếc xe chạy đầu vẫn tiếp tục chạy, một chiếc xe Jeep đă bị nổ lốp nhưng vẫn cứ phom phom. Tôi giục tài xế: “Tống hết ga chạy nhanh lên”. Chiếc xe chồm lên chạy giữa đám khói mịt mù cùng những tiếng nổ tiếp theo. Khổ quá! Vài người “anh em thù nghịch” ṃ ra ở khu rừng thấp bên phía Tây bắn M79 vào đoàn xe của chúng tôi chơi cho vui giữa lúc bóng đêm sắp sửa xông lên từ ḷng đất. Đến quận Phong Điền, kiểm điểm lại chỉ hai người bị thương nhẹ ở đùi mà thôi. Những chiếc xe chạy ở phía sau cũng đă đến an toàn. Buổi tối đó, tại Chi khu Phong Điền, Thiếu Tá Bích, Quận Trưởng, một niên trưởng của tôi, đă mời chúng tôi mấy chai bia. Chưa bao giờ tôi thấy bia ngon như đêm hôm đó. Vài ngày sau, tôi có dịp đi Huế để nh́n ngắm kết quả của cuộc lui binh ngày 1 tháng 5 ra khỏi Quảng Trị. Phố xá tiêu điều, hàng quán đóng kín cửa, chợ Đông Ba bị đốt cháy nám đen. Huế lúc đó là một thành phố chết, không thể mua được một cái ǵ cả. Gịng sông Hương đă vắng bóng những con đ̣, “Đệ Thất hạm đội” của “chị em ta” lừng danh một thuở cũng đă xuôi gịng ra cửa biển mất tăm! Huế của lăng mạn, của thơ mộng với những tà áo trắng phất phơ bay trên cầu Trường Tiền, chiếc nón bài thơ e ấp không c̣n nữa. Ít ra là ở trong giây phút đó. Tuyến pḥng thủ Mỹ Chánh đă đứng vững và được kéo dài thêm ra đến biển với hai Lữ đoàn 258 TQLC và Lữ đoàn 369 TQLC chịu trách nhiệm. Với một quan niệm là pḥng thủ nhiều khi cũng phải tấn công để gây rối loạn hậu tuyến địch, phá vỡ việc địch tập trung để tấn công Huế và cho địch hiểu rằng ta muốn lấy lại những phần đất đă bị mất bất cứ lúc nào: ngày 13-5-72 Lữ đoàn 369 TQLC đă bất thần mở cuộc phản công vào quận Hải Lăng, bằng cách trực thăng vận đổ Tiểu đoàn 3 và Tiểu đoàn 6 TQLC xuống trận địa. Trong khi đó th́ Tiểu đoàn 9 TQLC lại vượt qua sông Mỹ Chánh tiến lên phía Bắc để giao tiếp với các đơn vị bạn. Trước đó sự phối hợp yểm trợ hỏa lực phi pháo cũng như của B-52 thật chặt chẽ. Trận đột kích đă gây náo loạn cho hàng ngũ Cộng quân, khi các trực thăng khổng lồ đổ những người lích TQLC xuống th́ quân Cộng sản Bắc Việt tan ră hàng ngũ bỏ chạy tán loạn ra các cánh đồng, trong khi đó dân chúng cũng bắt đầu chạy về hướng TQLC. Một sự kiện lạ là trong khi Cộng quân bỏ chạy trước các cánh quân của Tiểu đoàn 3 và Tiểu đoàn 6 TQLC ở phía Bắc th́ địch lại chịu chạm súng với Tiểu đoàn 9 TQLC lúc đơn vị này vừa qua sông. Trung Tá Nguyễn Kim Để, Tiểu đoàn Trưởng Tiểu đoàn 9, người hùng trong trận đánh chận đứng địch tại Hành Lang Máu ngày 1-5 đă quyết định táo bạo khi cho các “con cái” của ông vượt sông lúc 5 giờ sáng thay v́ 7 giờ như đă ấn định. Chính quyết định này đă gây hoàn toàn bất ngờ đối với địch quân và giảm thiểu mức độ thiệt hại quân bạn. Cuộc hành quân đă gây những yếu tố tâm lư quan trọng hiện tại và là một cuộc hành quân được phối hợp tuyệt vời nhất, kín đáo nhất. Hơn một ngàn ba trăm dân đă được giải thoát nhờ cuộc hành quân này. Địch mưu toan chọc thủng pḥng tuyến Mỹ Chánh Cuộc hành quân kéo dài trong ngày và các đơn vị TQLC lại về pḥng thủ tại tuyến Mỹ Chánh. Trong suốt một tuần lễ sau đó, lằn mức giao chiến giữa ta và địch tại con sông Mỹ Chánh cứ nhập nhằng, thỉnh thoảng địch cố mở vài mũi dùi ḍ la sức phản công của ta rồi im lặng. Cho đến ngày 22-5, trận chiến dữ dội mở màn ghi một điểm son trong pho quân sử của binh chủng TQLC. Trận đánh đă xảy ra 24 giờ đồng hồ trước khi những nút chai sâm banh được mở ra để đăi vị Tổng Thống Hoa Kỳ R. Nixon trong một bữa tiệc tại thủ đô Nga Sô mà 23 xe tăng PT76 và T54 của Cộng sản đă bốc cháy cùng 130 xác đồng bọn bỏ lại trên trận địa dọc theo pḥng tuyến. Theo ước tính của t́nh báo, lẽ ra trận tấn công trên của địch diễn ra ngày 19-5-72 nhưng không biết v́ trục trặc ǵ đó mà trễ mất 3 ngày. Và người ta nhận định rằng chỉ có khoảng thời gian đó là thuận tiện cho việc tấn công v́ ư đồ của Hà Nội đă thấy rơ: Muốn biến cuộc gặp gỡ thượng đỉnh Nga-Mỹ thành một hội nghị Genève mới. Và nếu để sau ngày Nixon Nga du th́ mọi việc kể như xong rồi. Ngày 21-5, Bắc Việt tung quân bộ chiến có xe yểm trợ tiến đánh một đơn vị Địa Phương Quân tại 9 cây số Đông Bắc Mỹ Chánh. Lực lượng này không chịu nổi sức tấn công của địch đă phải tháo lui về phía sau pḥng tuyến 2 cây số. Tiểu đoàn 9 và Tiểu đoàn 3 TQLC đă tức tốc đem quân chận đứng địch, đồng thời trám lại một lỗ hổng nhỏ trên tuyến pḥng thủ chính. Hậu quả của sự tháo lui của lực lượng Địa Phương Quân này là một toán chốt của địch đă xâm nhập được phía Nam sông Mỹ Chánh. Do đó, con đường huyết mạch để tiếp tế cho các đơn vị TQLC từ quận Phong Điền đến phía Đông Bắc pḥng tuyến bị gián đoạn trong 3 tiếng đồng hồ. Bộ Tư lệnh liền quyết định tung thêm Tiểu đoàn 39 Địa Phương Quân tăng cường cho Lữ đoàn 369 TQLC. Tiểu đoàn này di chuyển bộ từ Phong Điền đến tiếp giáp với Tiểu đoàn 8 TQLC đang trú đóng tại 3 cây số Nam pḥng tuyến để phối hợp với đơn vị này càn quét và thanh toán chốt vừa xâm nhập đêm qua. Trong khi đó th́ Tiểu đoàn 3 và Tiểu đoàn 9 TQLC vẫn giữ mặt Bắc không cho địch tràn xuống. Mục đích của địch là cho các toán chốt xâm nhập trước để quấy rối ta rồi sau đó các đơn vị hỏa lực với tăng và pháo yểm trợ chọc thủng pḥng tuyến. Trong ngày 21-5, quân ta đă thanh toán xong các toán chốt của địch lẩn quất trong vùng. Bây giờ lằn ranh giao tranh giữa hai bên vẫn là con sông Mỹ Chánh. Ngay trong buổi chiều hôm đó, Tiểu đoàn 3 TQLC tung thêm một đại đội xa hơn về phía Đông vượt qua con sông Ô Lâu; nhánh của Phá Tam Giang ăn thông với sông Mỹ Chánh nằm chặn địch tại đó. 23 giờ ngày 21-5, khoảng 30 xe tăng PT76, T54 và PT85 của Cộng sản với tùng thiết (bộ binh tháp tùng xe tăng) chia làm 2 mũi dùi từ Bắc và Đông Bắc Mỹ Chánh ào ạt tiến xuống. Trận chiến bắt đầu từ giây phút này. Đêm ấy tôi hoàn toàn thức trắng ngồi tại T.O.C. theo dơi diễn biến trận đánh. Tiểu đoàn Trưởng Tiểu đoàn 3 TQLC Lê Bá B́nh cho lệnh các đại đội của ông sẵn sàng M72 và chờ cho chúng đến gần 100 thước mới khai hỏa. Ngay phút đầu tiên, 7 PT76 bị hạ. Nhằm không cho các đơn vị của ta tiếp ứng lẫn nhau, Cộng quân đă pháo kích dữ dội vào vị trí của các đơn vị Tiểu đoàn 9 TQLC trong khi tiến đánh Tiểu đoàn 3 TQLC. Sau 3 giờ giao tranh, một đại đội của Tiểu đoàn 3 TQLC đă phải lui về phía sau con sông Ô Lâu một cây số. Một phi cơ soi sáng từ Đà Nẵng được gọi lên vùng, hai bên lại tiếp tục quần thảo. Một mũi dùi khác thọc xuống phía Nam né tránh hoàn toàn giao tranh với Tiểu đoàn 39 Biệt Động Quân. Đến đây th́ cái mấu chốt của sự thảm bại của Cộng sản Bắc Việt bắt đầu. ***** 3. Mỹ Chánh là chiến thắng của Thủy Quân Lục Chiến. Để hiểu tầm quan trọng của chiến thắng này cần nh́n thấy rơ nỗ lực của Bắc quân. Đích thân Lê Trọng Tấn, tay Tướng được xem dũng lược nhất của Hà Nội nắm quyền Tư lệnh Chiến dịch Trị Thiên Xuân - Hè 1972. Cuối tháng 3 Lê Trọng Tấn ném 3 sư đoàn chính quy Bắc Việt 304, 308, 320B qua sông Bến Hải, tăng cường thêm 2 sư đoàn 324 và 325 sau khi chiếm Quảng Trị. Sư 304 là sư đoàn chuyên đánh đồng bằng. Sư 308 là sư đoàn đầu tiên của Việt Minh thành lập từ 1949 mà bộ chỉ huy Pháp đặt tên Division d’Acier, tức Sư đoàn Thép. Sư đoàn 320B thoát thân từ Sư đoàn 320 là sư đoàn cũ của Văn Tiến Dũng. Sư đoàn 324 “chuyên trị” “Nam-Ngăi-B́nh-Phú” và Sư đoàn 325 danh hiệu Đại đoàn B́nh-Trị-Thiên. Tất cả, nói lên ư chí chiếm Huế của Lê Duẫn. Cả 5 sư đoàn trên đều dày dạn trận mạc. Nếu 304 và 308 từng đánh Điện Biên th́ 3 sư đoàn c̣n lại am tường địa thế miền Trung. Bên cạnh, 2 trung đoàn chiến xa 202 và 203, rồi 4 trung đoàn Pháo binh gồm 408 đại bác mà 68 khẩu là pháo 130 ly, cộng 93 khẩu 122 ly Sô-Viết cùng 247 khẩu sơn pháo 76 và 85 ly, không tính súng không giật SKZ cũng như súng cối nặng 120 ly của bộ binh. Thêm 2 sư đoàn cao xạ 367, 376 và 2 trung đoàn tên lửa 238, 237 với hỏa tiễn SA-2. Tỉnh đoàn Thừa Thiên cung cấp thêm Trung đoàn Độc lập 559 Chủ lực Miền. Một ưu thế tuyệt đối. Chính với ưu thế này mà Lê Trọng Tấn đă tự tin đánh dàn trận bằng chiến xa và cũng lần đầu tiên Bắc-Việt sử dụng rộng răi pháo 130 ly. Chỉ trong ngày đầu tiên của Chiến dịch Băo Táp, đă pháo 11,000 quả đạn đủ loại. Phía VNCH, đầu tháng 4 gánh nặng trên vai Sư đoàn 3 Bộ Binh, là một sư đoàn tân lập đă phải thâu nhận khá đông đào binh, quân phạm từ các Trung tâm Cải huấn. Không thể xem quân phạm tác chiến kém. Sau cải hối, mỗi người lính là một binh sĩ Quốc Gia ngang đồng vị trí. Nhưng các sĩ quan cần thời gian để tái huấn luyện, thiết lập kỷ cương. Chính thời gian là điều Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai không sở hữu, v́ chưa đầy 6 tháng sau thành lập với đảm trách nặng nề của vùng hỏa tuyến, đă phải đương đầu với tổng tấn công của Bắc Việt. Thêm nữa, bội phản của Trung Tá Phạm Văn Đính đầu hàng tại Camp Carroll đă tạo ra khoảng trống cạnh sườn phía Tây Quảng Trị. Từ đây, Bắc quân tràn vào như thác. Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai bị pḥng Thanh Tra của Bộ Tổng Tham Mưu VNCH câu lưu và đưa ra ṭa án binh v́ đă để mất tỉnh địa đầu. Trung Tướng Hoàng Xuân Lăm bị cách chức, thay thế bằng Tướng Ngô Quang Trưởng. Các sự kiện trên, nói lên t́nh h́nh nguy ngập cùng cực khi TQLC nhận vùng trách nhiệm Mỹ Chánh. Nếu TQLC buông tay, Lê Trọng Tấn sẽ vinh quang vào giải phóng - thảm sát Huế thêm lần nữa. Nhưng chính tại Mỹ Chánh, vào tháng 5-1972, những người lính TQLC đă giữ vững pḥng tuyến và cùng lúc giữ vững danh tiếng của binh chủng này. Chính chiến thắng Mỹ Chánh đă cho phép Tướng Trưởng củng cố Quân đoàn I và tái chiếm Quảng Trị. Cũng chính Mỹ Chánh, đă giúp Tổng Thống Thiệu có thể quỳ xuống giữa giáo đường La Vang về sau. Mỹ Chánh, là một phá lam đă làm gẫy mũi giáo phương Bắc. Trần Vũ Gài địch vào vùng tập trung hỏa lực Cánh quân thứ hai của địch tưởng rằng đă chọc thủng được pḥng tuyến rồi nên chúng cố thọc sâu hơn về hướng Nam từ lúc 4 giờ sáng ngày 22-5. Vùng tập trung hỏa lực của LĐ 369 TQLC tại hơn 3 cây số về phía Nam pḥng tuyến với Tiểu đoàn 8 TQLC, hai pháo đội của Tiểu đoàn 3 PB/TQLC và một số chiến xa. 5 giờ, phi cơ bắt đầu soi sáng vị trí của Tiểu đoàn 8 TQLC. Khi trái sáng cuối cùng vừa dứt, tôi nh́n đồng hồ: 5 giờ 55 phút. Mặt trời chưa lên, đó là lúc “b́nh minh hàng hải” vừa để đủ trông thấy mọi vật một cách lờ mờ. Cánh quân của địch vừa thoát xuống chia làm hai mũi dùi tiến thẳng tới vị trí của Tiểu đoàn 8 và hai pháo đội của Tiểu đoàn 3 PB/TQLC. Lúc bấy giờ mọi người đă sẵn sàng. Xạ trường ở phía trước trống trải toàn là đồng ruộng, xa hơn chừng 500 thước là những lùm cây thấp. Xe tăng địch lù lù tiến đến với tác xạ dữ dội với đủ mọi loại súng đặt trên xe cũng như của quân di chuyển bộ. Các chiến sĩ Tiểu đoàn 8 TQLC và Tiểu đoàn 3 PB/TQLC vẫn b́nh tĩnh chờ đợi, không một ai nao núng. Xe tăng địch c̣n cách 500 thước, 400 thước, 300 thước, 200 thước rồi 150. Tất cả súng M.72 đồng loạt khai hỏa, các khẩu pháo binh 105 ly th́ bắn trực xạ. Ngay trong phát đầu tiên, các pháo thủ của pháo đội K do Trung Úy Vũ Quang Vinh chỉ huy đă hạ được một chiếc PT76 bốc cháy. Rồi lần lượt các chiếc chiến xa khác của địch trên một trận tuyến dài 500 thước đều bị bắn cháy. Tiếng súng hai bên vẫn nổ ṛn. Trước mắt tôi chừng 500 thước một chiếc PT76 bị bắn cháy nhưng vẫn c̣n chạy được trông không khác ǵ một con chuột bị người ta tẩm xăng đốt cháy. Chiếc hỏa tiễn TOW, loại vũ khí chống chiến xa mới nhất do Hoa Kỳ cung cấp, đặt từ trong tuyến pḥng thủ phóng bồi thêm một quả nữa. Chiếc xe tăng của địch đang chạy bỗng khựng lại, ngọn lửa bùng cháy cao hơn. Lúc bây giờ chung quanh tôi rào rào tiếng vỗ tay reo ḥ của lính. Một chiếc T54 khác th́ thê thảm hơn: Bị bắn cháy lật nằm nghiêng, ngọn lửa bùng lên từng chập như có ai đổ dầu thêm. Trong ṿng 15 phút đồng hồ, tất cả xe tăng của địch đều bị hạ. Mọi người ai cũng thấy phấn khởi và lên tinh thần. Hai chiếc tăng khác hoảng sợ không dám tiến vào nữa mà ẩn núp sau lùm cây thấp và bị phát giác nhờ chiếc ống nhắm của hỏa tiễn TOW khi thấy hai cái ăng-ten của hai chiếc xe ló lên. Lập tức, hai chiếc phản lực cơ được gọi đến hạ ngay tại chỗ. Lúc này th́ trời đă sáng, ánh sáng tạm đủ để nh́n thấy cảnh vật qua lớp sương mờ mờ. Vài chiếc tăng không bị trúng đạn cố gắng tháo chạy về phía Bắc cũng bị phi cơ đuổi theo oanh kích cháy nốt. Trải dài trước mắt tôi, dọc theo tuyến pḥng thủ thành một h́nh ṿng cung là 9 xác xe tăng của địch vừa PT76 vừa T54 nằm la liệt, lửa từ trong các xe bốc lên hừng hực. Trận chiến xảy ra như một cảnh trong cinéma. Tôi nghĩ rằng chỉ có trong ciné mới có thể có được những cảnh đó nhưng sự thật đă diễn ra trước mắt tôi và có lúc tôi tưởng rằng đó là cơn mê. Một giờ sau, Trung Tá Nguyễn Thế Lương, Lữ đoàn Trưởng Lữ đoàn 369 TQLC tung quân truy kích địch. Cuộc chạm súng lẻ tẻ trong ṿng bán kính 800 thước lại xảy ra. Các chiến sĩ Tiểu đoàn 8 TQLC của Thiếu Tá Nguyễn Văn Phán như say men chiến thắng ào ạt tiến lên tiêu diệt nốt những tên c̣n sót lại. Thiệt hại về phía TQLC chỉ có 3 chết và 5 bị thương, một số tổn thất coi như không đáng kể. Tôi không nhớ rơ các chiến sĩ Tiểu đoàn 8 TQLC đă tịch thu được bao nhiêu súng cộng đồng và cá nhân nhưng chỉ biết là khá nhiều. Tôi cũng như bao nhiêu người khác lúc đó chỉ khoái chú ư đến những chiếc xe tăng của địch c̣n bốc khói nghi ngút. Đặc biệt trong số này có một chiếc PT85. Thứ này na ná như chiếc M113 của ta nhưng “đẹp” hơn nhiều. Chiếc xe đó đang được kéo về triển lăm ở Huế. Tôi cũng không thể hiểu được Cộng quân điều binh theo cái lối nào mà kỳ quặc đến thế: cho xe tăng dàn hàng ngang trước một tuyến hoàn toàn trống trải để đưa lưng mà nhận lănh đạn. Điều đáng ghi trong trận đánh này là sự b́nh tĩnh vô cùng của các chiến sĩ TQLC. Một chi tiết đáng ghi khác là khi chiếc xe tăng đầu tiên của địch bị hạ, không một quân nhân nào của Tiểu đoàn 8 TQLC c̣n núp ở trong hầm, tất cả đều đứng thẳng lên, M72 trên vai ngắm xe tăng mà bóp c̣. Có anh bỏ vị trí chạy ra bờ ruộng để bắn gần cho chắc ăn. Vài giờ đồng hồ sau đó, Chuẩn Tướng Tư Lệnh Sư đoàn TQLC đă có mặt tại trận địa bên cạnh những chiếc xe tăng của địch c̣n cháy nghi ngút để khen thưởng các chiến sĩ thuộc Lữ đoàn 369 TQLC và đồng thời quyết định những kế hoạch kế tiếp. Với chiếc máy ảnh trên tay, tôi ṃ ra chỗ những chiếc xe tăng bị hạ. Xác chết của địch nằm la liệt. Chung quanh những chiếc xe tăng, chỗ này 30 xác chết, chỗ khác 11 xác. Rất ít xác c̣n được nguyên vẹn. Có xác bị cháy đen thân thể co quắp lại như một đứa con nít. Nh́n họ, bỗng tôi nhớ đến buổi nói chuyện với một tù binh Cộng sản, Thượng sĩ viên giữ chức vụ Đại đội phó thuộc Tiểu đoàn K.2 Trung đoàn 3 CSBV. Anh nói với tôi “Tôi cũng biết rằng vào đây không có đánh Mỹ nữa v́ Mỹ đă rút quân dần ra khỏi miền Nam rồi, nhưng lệnh bảo đi th́ đi. Thế thôi, muốn cưỡng lại cũng không được. Rốt cuộc, chỉ chúng ta là những người Việt Nam ở cả hai miền Nam Bắc bị chết trong cuộc chiến này”. Cũng trong trận đánh trên, TQLC tịch thu được hai khẩu súng SA7 (c̣n có tên là STRELLA) đó là loại hỏa tiễn giật tay “ḍ t́m hơi nóng” để bắn phi cơ. Đây là lần đầu tiên, Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa tịch thu được loại vũ khí đó trên chiến trường. Thảm bại của CSBV lần này c̣n nặng nề hơn ngày 09-04-1972 mà Tiểu đoàn 6 TQLC đă dùng súng M72 hạ hàng loạt chiến xa địch mở đầu cho chiến dịch thi đua diệt xe tăng Cộng sản Bắc Việt. Những ngày kế tiếp, suốt dăy tuyến pḥng thủ dọc theo Mỹ Chánh từ Quốc Lộ 1 ra đến biển, ngày nào cũng có xe tăng địch bị hạ, khi th́ 2 chiếc, khi th́ 3 chiếc. Nếu không bị các đơn vị của Lữ đoàn 258 TQLC quất sụm th́ cũng bị Lữ đoàn 369 TQLC đốn ngă hay do phi cơ oanh kích cháy. Ngày 25-05-1972, Lữ đoàn 147 TQLC lại mở một cuộc tấn công khác sâu hơn vào hậu tuyến địch bằng trực thăng vừa đổ bộ bằng tàu của Đệ Thất Hạm đội Hoa Kỳ, tung các Tiểu đoàn 6, Tiểu đoàn 7 và Tiểu đoàn 4 TQLC vào khu vực 15 cây số Đông Quảng Trị. Trước đó vài giờ, toàn bộ Ban chỉ huy của Trung đoàn 66 CSBV bị B.52 cày nát. Mặc dù vẫn có giao tranh ác liệt giữa các đơn vị TQLC với Cộng quân khi tiến sâu về phía Bắc nhưng điểm chính yếu ghi nhận được là phần lớn địch đă cố t́nh né tránh các cuộc tấn công của ta và đă rời bỏ vị trí tháo chạy. Cuộc hành quân trên đă đạt được một kết quả đáng kể: hơn 5000 dân chúng đă theo các đơn vị TQLC về quận Hương Điền an toàn. Điều đó một lần nữa chứng tỏ rằng dân chúng không thể nào sống trong vùng Cộng sản kiểm soát. Đến nay th́ sau những lần mưu toan chọc thủng pḥng tuyến Mỹ Chánh để tiến về Huế của địch đă thất bại, thêm vào đó là Cộng quân nơm nớp lo sợ không biết ta tung quân tấn công lúc nào nên khi tôi viết những ḍng này chiến trường ở phía Đông Bắc Mỹ Chánh đă bớt sôi nổi. Mặc dù vậy, địch cũng đang cố hướng mũi dùi về phía Tây, nơi đó Lữ đoàn 258 TQLC đang ngày đêm chặn đánh kẻ thù và mọi cố gắng xâm nhập của địch đều hoàn toàn bị chặn đứng tại đây. Ngày mai trời sẽ sáng. Khác với mọi lời tiên đoán bi quan lúc đầu khi thành phố Quảng Trị bị thất thủ là cố đô Huế bị đe dọa nặng nề và không biết sẽ mất lúc nào, t́nh h́nh chung bây giờ đă sáng sủa. Những cố gắng của địch đều bị phá vỡ. Pḥng tuyến Mỹ Chánh đă đứng vững. Sự sinh hoạt ở Huế đă trở lại b́nh thường. Nếu bỏ qua một phần những giải pháp chính trị cho cuộc chiến Việt Nam (…) theo đó sự tái chiếm Quảng Trị chưa cần thiết th́ trên b́nh diện quân sự, việc tái chiếm Quảng Trị và những phần đất đă mất chỉ là vấn đề thời gian. Việc tiếp liệu về lâu về dài cho các đơn vị CSBV trên chiến trường miền Nam đă là một vấn đề nan giải trong cường độ oanh tạc miền Bắc của không lực Hoa Kỳ hiện tại. Mặt khác, theo một nguồn tin t́nh báo Hoa Kỳ th́ Cộng quân sẽ đánh mạnh để chiếm Huế trong khoảng thời gian từ 03-06-1972 đến 10-06-1972. Tuy nhiên, dưới con mắt nh́n của các giới quan sát quân sự th́ việc đó đối với Cộng quân khó có thể xảy ra trong thắng lợi được v́ sự thiệt hại của địch quá lớn lao sau gần 2 tháng xâm lăng, tinh thần cán binh thấp xuống đến mức e ngại mà theo tin tức th́ các vị Tư lệnh chiến trường của CSBV đă khuyến cáo Hà Nội cũng nên t́m một giải pháp nào cho chiến cuộc này khác hơn là ở trên chiến trường. Thế nhưng chiến trường nào cũng có thể có những diễn biến bất ngờ và sự bất ngờ đó đối với Hà Nội chỉ có trong trường hợp Tướng Vơ Nguyên Giáp có được chiếc đũa thần. Để kết thúc, tôi xin ghi lại ở đây nội dung buổi phỏng vấn Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân, Tư Lệnh Sư đoàn TQLC, của phái viên “đầu bạc” Nguyễn Tú của nhật báo Chính Luận ngày 27-05-1972, theo đó vị Tướng Tư Lệnh Sư đoàn TQLC cho rằng: – Vấn đề chống địch, phản công địch, diệt địch không khó. Điều quan trọng là nắm vững t́nh h́nh địch, điều quân mau lẹ như chính ông (phái viên Chính Luận) đă thấy tại trận địa và nhất là sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị bạn. Điển h́nh là hành quân Sóng Thần 06-72 tấn công Hải Lăng ngày 25-5-72 đă được thiết kế và quyết định trong 24 tiếng đồng hồ. – C̣n tương lai? – Ông không thấy trời rất đẹp sao? Trần Vũ |
Người Chỉ Huy Về Già - Trung Tá Đào Văn Hùng
2 Attachment(s)
Có thể nói sếp cũ của tôi là một ông già, già nhất trong những người giữ nhiệm vụ chỉ huy đơn vị tác chiến. Ông đi lính từ một thuở thật xa, lâu lắm, cách đây hơn hai mươi năm lúc quân đội chỉ độc các loại Commando, Lê Dương, Nhảy Dù thuộc địa... Đánh nhau bằng súng mút-cờ-tông từng phát một hay những cây FM đầu bạc bắn gật gù như ông già ho lao. Lúc chiến tranh c̣n nằm tít trên biên giới Lào – Việt – Trung, trận đánh toàn một cách xung phong ầm ầm, ào ào để giữ những làng, thị trấn mang tên lạ hoắc như Bản Hiu-Siu, Mường Phen, Thất Khê...
Ông già sếp tôi thuở đó khởi nghiệp nhà binh với lon Cai ở Commando. Không rơ những ngày ở đơn vị đó ông có những ǵ đặc biệt, chỉ biết ông ta nhắc lại đoạn đời qua bằng một câu thật gọn: Cai thậttrẻ… Giọng Bắc Kỳ khàn khàn xuống mạnh vào chữ mang đầy kiêu hănh và tự tín. Tước hiệu “cai thật trẻ” h́nh như là nỗi hănh diện đầu tiên và đích thực nên sau này khi đă đóng đến lon “quan Năm”, lúc say rượu, dù cơn say vào độ tơi bời tàn khốc, ông vẫn c̣n nhớ được: “Tao là Cai Hùng, đếch phải là trung tá cái củ c. ǵ ráo...”. Cai Hùng! Cai Hùng! Một tuổi trẻ gió băo nào đó đă đi qua. Lúc tôi đến đơn vị này, ông năm mươi tuổi; năm mươi tuổi để tất cả đầu tóc bạc trắng và những nếp nhăn cày sâu trên mặt, nhưng ông vẫn c̣n nguyên vẹn thái độ nồng nhiệt đối với đời sống của ngày trai trẻ. Thời gian về trước ông đă nổi tiếng với những câu chuyện như sau: Quan Ba Nhảy dù nhưng vẫn đánh một chiếc xe đạp thổ tả cọc cà cọc cạch rong chơi với một con gà ở đằng sau porte-bagages. Thú nuôi gà của ông đă lên đến cao độ đến nỗi ông ta mang biệt hiệu “Hùng gà chọi”. Nghe tiếng một con gà nào đó ở Bà Điểm nổi danh v́ ngón đ̣n, ông lọc cọc chiếc xe vượt qua một quăng đường dài lồi lơm sống trâu để chứng kiến cho được ngón đ̣n của gà... Hăy nghe ông “luận” về gà: Nó là một guerrier, đấy là một combattant, không bao giờ lùi không bao giờ chịu thua... Đến chữ “thua” ông đưa một quả đấm lên trời, mắt long lên ṣng sọc. Đúng là h́nh ảnh của một con gà chọi. Chẳng hiểu thằng nào gán cho ông cái biệt hiệu thật đúng phong phóc!!! Nó là một tay gan ĺ! C’est un type! Dù có bị đánh lê nhê, máu me đầm đ́a, hắn ta vẫn nhẫn nha chiến đấu… Có con gà bị đánh mù mắt, hắn ta mù nhưng vẫn lừa đối thủ để kẹp lấy chiếc cổ và thế là a-lê-hấp nó phản đ̣n ngay. Ông có thể luận về gà đầy đủ chi tiết, nhại lại thế đứng,một ngón đ̣n hay của con gà… Không có ǵ phải bất tiện, hai tay là hai cánh gà, hai chân biến thành một cặp chân tưởng như có đủ cựa nhọn, đầu cúi xuống, ông diễn tả nhiệt t́nh và chi tiếp hấp dẫn của mỗi trận đấu. Thế giới loài gà nếu biết được sự ái mộ nồng nhiệt đó chắc hẳn không bao giờ buồn phiền nếu ở trong tường hợp “à la casserole” hay “à la gamelle”… sau khi bị thua trận. Sau đá gà là rượu, rượu là nước của ông, chiếc bi-đông sau lưng bao giờ cũng đầy rượu đế ngâm vài cục đường phèn. Nhấp một tí rượu, cắn một miếng cóc nhỏ là đủ sức đi thêm một đoạn đèo, vượt một rặng núi. Dừng quân, cởi chiếc nón sắt, ông rút bi-đông làm ngụm rượu, đốt điếu thuốc, loại thuốc đen Mélia hay Bastos ngồi lim dim đôi mắt... Anh lính cần vụ lân la đến hỏi: – Trung Tá có ăn cơm không? – Tớ đ... cần! – Trung Tá có mệt không? – Mệt chó nào được, ngày rút từ Lào về tớ chạy bộ suốt bao nhiêu ngày đêm cũng chẳng bơ bèm ǵ... – Chết mẹ... – Tụi lính x́ xào… - Ông già lại nói chuyện bản Hiu-Siu th́ chết cả lũ! Đúng ngay bong! Ông bắt đầu kể chuyện Bản Hiu-Siu ở bên Lào... – Lúc đó tớ là Thiếu úy, ban đêm Việt Minh ùa vào, dây kẽm gai giăng thấp chừng này, lính Bayonnette au canon! À la grenade… En assaut... Việt Minh lùa vào, mặc, tớ cứ tương lựu đạn đều đều... Ông ta đứng dậy ngay trên sườn núi biểu diễn thế ném lựu đạn và đâm lưỡi lê, ngừng một chút để hớp thêm tí rượu. Thiếu tá cố vấn Mỹ đến hỏi một điều ǵ đó, ông cụt hứng gắt um: – C... Đ.M cứ lẩm cà, lẩm cẩm cả ngày... Trung Tá Đào Văn Hùng và viên Cố vấn Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù Anh cố vấn de lui, mặt mũi thộn ra trông “quê” một cục. Ở Phú Thứ, Thừa Thiên năm 1967, ông chỉ huy tiểu đoàn tôi cùng Tiểu đoàn 7 Nhảy Dù tiến đánh vào khu giải phóng của vẹm, lúc Tiểu đoàn 7 đụng trận, ông đứng trên thiết vận xa nhảy cỡn lên v́ thích thú... – Đấy, tớ biết ngay, các chú (Việt cộng) đang ở chỗ này, nhất định là ở chỗ này… Thằng Bảy đụng ở đây, tớ dàn cậu (chỉ tiểu đoàn trưởng tôi) ở chỗ này là đi đoong đời các chú, tớ nghiền… Nghiền nát các chú ấy. Chữ “nghiền” được diễn tả bằng hai bàn tay bóp chặt vào nhau và kéo dài theo hơi thở, mồm ông méo hẳn lại để diễn tả cảnh tan nát của các anh Việt cộng. Đại loại là như thế, ông sống ở đời với thái độ “Tiếu Ngạo Giang Hồ”, nhân vật Lăo Ngoan Đồng Chu Bá Thông chắc cũng đến độ của ông già sếp tôi mà thôi. Năm 1965 hành quân tại Đức Cơ khi rút ra Pleiku nghỉ, không hiểu bị lôi kéo thế nào ông đi theo mấy đại đội trưởng vào hội quán Phượng Hoàng để khiêu vũ! Lệnh ông tướng vùng bấy giờ cấm mặc quân phục vào hội quán, anh Quân Trấn Trưởng nói năng ra làm sao, ông nổi sùng... – Đ.M! Hùng đi hành quân chỉ có mỗi bộ quần áo nhà binh, không cho tớ mặc đồ trận th́ tớ cởi truồng sao? Thuận tay ông đưa luôn một qua direct, anh Quân Trấn Trưởng nằm thẳng cẳng. Đóng quân ở Hương Trà, Huế, tiểu đoàn tôi làm tiệc mời ông ra hát. Hát không được th́ tớ múa vậy! Nói là làm, ông đi một đường flammenco cũng lắc mông, lắc ngực, và kết thúc là một bài thuyết tŕnh “Qu’est ce que l'armée?” Tiếp theo là những lời sỉ vả tàn tệ vua quan sĩ thứ người trong nước, ông nhớ đến ai ông chửi tơi bời hoa lá, chửi đích danh, chửi ngon lành, chửi như một cơn giận từ bao nhiêu lâu che dấu nay cho tuôn ra như ḍng sông được mở... Đầu năm 1968, gần Tết Mậu Thân, lữ đoàn ông hết nhiệm vụ, từ Huế trở về Sài G̣n. Ông Tướng Khu Chiến Thuật nhắc ông ở lại Huế để đón Tổng Thống cùng Thủ Tướng, ông hạ ngay một câu: – Tớ hết hành quân là tớ về, Tổng Thống đâu có thương tớ bằng mẹ đĩ được! Nói xong ông leo lên tàu bay đi thẳng. Có một anh nhà báo lân la đến phỏng vấn... – Xin Trung Tá cho biết ư kiến về cuộc hành quân vừa qua? – Ư kiến hả? Đợi cho anh nhà báo sửa soạn ghi chép, ông “tuyên bố”: - Sướng nhất là đêm Noel tớ say rượu gọi máy truyền tin qua Bến Hải chửi Vơ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh!! Nhưng đằng sau những cơn say, những màn tiếu ngạo ồn ào trên, thật dễ dàng nhận được niềm thiết tha, mối nhiệt t́nh nồng nàn đối với quân đội và quê hương. Thật lạ lùng với hai mươi năm ở đơn vị tác chiến, thời gian bằng số tuổi của một gă trai trẻ, một gă trai trẻ cỡ tôi nhưng ḷng hiu hắt như cơn nắng quái sắp tàn. Hơn hai mươi năm nhà binh với năm mươi tuổi, một mái tóc bạc trắng, ông vẫn có một nụ cười thật tươi để thêm vào câu chuyện. Thế nào là một cán bộ giỏi? Thế nào là những nguyên tắc căn bản để chỉ huy? Thế nào là DOC (Dirriger, Organiser, Controller) ông nói say sưa, dẫn giải từng điểm chi tiết về bổn phận của người Trung đội Trưởng, Đại đội Trưởng. Khói thuốc lá làm ánh mắt thành hiền ḥa, ông nói sang sảng, tŕnh bày mạch lạc. Ông gây nơi tôi một sự xúc động kỳ lạ, nỗi xúc động khám phá được niềm tin vẫn c̣n trong ḷng một người giáo tóc bạc da nhăn với hơn hai mươi năm đi khắp rừng sâu núi cả quê hương. Hơn hai mươi năm gánh chịu cơn đau yếu đỏ lửa của tổ quốc, cơn đau yếu nhọc nhằn của ḍng sống dân tộc chông chênh. Chiến tranh vẫn chưa đốn ngă niềm tin trong ḷng ông... Tớ chỉ là Cai Hùng... Cai thật trẻ!! Sau này ông bị ra khỏi binh chủng v́ một lư do nào đó tôi không hiểu nhưng điều này chắc chắn là một vết thương lớn nhất trong đời ông. Ông im lặng ngồi trong chiếc pḥng con nh́n xuống chân đồi doanh trại cười gằn uất nghẹn đau đớn. Làm sao nói cho hết nỗi cay đắng của người lính già khi phải từ bỏ đơn vị, binh chủng cùng sống trên hai mươi năm lúc tóc c̣n xanh như niềm hy vọng đến nay mái đầu nhuốm bạc trắng. Không những v́ một tuổi già nhưng cũng là lớp sương giá chồng chất lên sau khỏang thời gian binh biến. Thường ngày trong cơn say ông hay ṃ đến văn pḥng chúng tôi để t́m người nói chuyện, nhưng trong thời gian này ông ngồi im như một kiêu hănh bị xúc phạm, tiếng hét được gh́m xuống giữa kẽ răng thành những tiếng cười gằn nhức nhối như lưỡi dao đâm vào qủa tim đang mở miệng cười. Ông ra khỏi binh chủng, chỉ huy một đơn vị Bộ Binh nhưng vẫn mặc đồ ngụy trang và đội nón đỏ. Đâu c̣n là những kích thích về h́nh thức quyến rũ đối với ông. Nhưng phải nghe ông ta nói: “Tớ là Nhảy Dù... Tớ là Cai Hùng...” Tiếng “Nhảy Dù” nghe ngắn, chắc như xác định niềm hănh diện có thật của một người đă sống hết đời cho tập thể. Sau một thời gian ở trung đoàn này ông bị tai nạn trầm trọng, tất cả cơ quan trong người bị đảo lộn. Ông phải chịu nhiều cuộc giải phẫu, thị giác trở nên yếu kém, mất phần lớn ư niệm về sự việc. Lúc chúng tôi đến thăm, ông không nhận ra, nhưng trong nỗ lực của trí nhớ, bỗng nhiên ông nhận ra Vinh “con”, viên sĩ quan nhỏ tuổi nhất được ông thương mến như con cháu. Ông nhận ra nó đồng thời với một giọng nói run run: – Tớ lúc này chỉ thấy mờ mờ nhân ảnh! Trong tận cùng của đổ vỡ, ông cũng không mất đặc tính khôi hài, dấu hiệu của tâm chất dũng mănh dù hoàn cảnh đă đẩy đưa vào hố thẳm của tuyệt vọng. Sau này khi nh́n thấy được cảnh vật nhạt nḥa, ông đến trại thăm lại nhà cửa, hỏi thăm các hạ sĩ quan và lính cũ. Trí nhớ chưa phục hồi hẳn, ông mệt nhọc hỏi từng người với những câu nói rời rạc hỗn độn, sau cùng ông nói với tôi để xin người lính về giúp ông công việc riêng tại nhà. Lần đầu tiên nghe ông nói công việc liên quan đến gia đ́nh. Khi tôi bảo người lính theo ông về nhà, ông vui vẻ ra mặt: – Quư hóa quá, thế mới biết anh em Nhảy Dù luôn giúp đỡ nhau...! Ḷng tôi trùng xuống như cơn mưa của ngày đông buồn bă. Tiễn ông xuống đồi, bóng người lính già khuất bụi mờ. Sau kiếp người đằng đẵng gian lao cho Tổ Quốc một khỏang trống xám đặc bụi mù. Phan Nhật Nam Tháng 5-1969. Hậu cứ Long B́nh Hậu Từ: Về Trung Tá Đào Văn Hùng, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn II Nhảy Dù – Sau 30/4/1975, lực lượng Cộng sản vào khu Ngă Ba Ông Tạ truy lùng và xét xử ông cùng gia đ́nh. Do thương trận từ trước (bị mù mắt và tê liệt) nên bộ đội CS chỉ xử tử người con trai của ông tại Lăng Cha Cả ngay sáng ngày 30-4-1975. |
Hành Quân Salem House Cam Bốt 161
3 Attachment(s)
Đầu năm 1969, hải cảng Sihanoukville nhộn nhịp qua lại với những chiếc tầu chở hàng đến từ những quốc gia Đông Âu. Hàng đoàn xe vận tải của công ty Hak Ly chờ bốc hàng, sau đó dùng đường số 4 đến Nam Vang. Đoàn xe rẽ vào một kho tiếp vận quân sự ở ngoại ô thành phố, giao đồ tiếp liệu cho bọn cộng sản Bắc Việt. Những kiện hàng bí mật chứa vũ khí, đạn dược được tiếp tục vận chuyển suốt đêm trên đường số 7, băng qua đồn điền cao-su đến vùng biên giới rậm rạp thuộc tỉnh Kompong Cham hay khu vực Lưỡi Câu. Khu vực này do đơn-vị Hậu Cần 70 chăm sóc, gồm nhiều kho lương thực tiếp vận yểm trợ cho các công trường 5, 7 cộng sản bắc việt và công trường 9 việt cộng để bọn chúng xâm lăng Miền Nam Việt Nam. Tất cả vũ-khí, đạn dược vào đến lănh thổ Quân Khu III và IV đều qua ngả Cambodia. Sau hai mươi mốt tháng bí mật xâm nhập, đơn vị SOG đă khám phá ra nhiều mật khu chứa tới 200 ngàn quân xâm lược CSBV và Việt-Cộng. Hành quân xâm nhập vào đất Miên có tên là Daniel Boon, đến mùa thu năm 1969 cải danh thành Salem House để bảo mật. Sự hiện diện của bọn cộng phỉ Bắc Việt được xác định ngày 2 tháng Ba, 1969, khi một toán biệt kích SOG thuộc Bộ Chỉ Huy Nam (CCS) bị địch phát giác, truy kích kết quả chết hai quân nhân Mũ-Xanh Hoa-Kỳ là Trung-Sĩ William Evans và Micheal May. Xác của họ không t́m ra. Tổng Thống Hoa-Kỳ Johnson ra lệnh cho pháo-đài bay B-52 bí mật thả bom khu vực Lưỡi Câu gây ra 73 tiếng nổ phụ. Chỉ có viên phi công và sĩquan navigator biệt mục tiêu của trận ném bom. Một tháng sau, Tổng Thống Johnson ra lệnh cho B-52 thả bom trên mục tiêu do tướng Abram đề nghị. Trung Ương Cục Miền Nam (COSVN) do một hàng binh chỉ điểm. Mục tiêu này cách Memot 14 dặm về hướng đông nam, trên đất Cambodia, cách biên giới một dặm. Trận đánh bom này xẩy ra ngày 24 tháng Tư, 1969. Chuẩn Tướng Phillip B. Davision – Trưởng Pḥng Nh́ Cơ Quan MACV yêu cầu đơn vị SOG cho một đơn vị nhẩy vào thanh toán chiến trường sau khi trận ném bom B-52 chấm dứt. Đại-Tá Cavanaugh ra lệnh cho Bộ Chỉ Huy Nam (CCS) chuẩn bị cho một đại đội Hatchet Force nhẩy vào. Trong khi đó nơi Bộ Chỉ Huy Nam, nhiệm vụ được giao cho ‘Mad Dog Shriver’, một huyền thoại sống. Taị căn cứ Fort Braggs (Bộ Chỉ Huy LLĐB/HK) không ai biết đến đơn vị SOG cũng như hành quân Daniel Boon hoặc Salem House, nhưng đều biết Trung Sĩ Nhất Jerry Shriver mà bọn cộng sản Hà Nội gọi là ‘Chó Điên’. ‘Mad Dog’ Shriver cũng là người phát ra câu nói nổi tiếng trong lịch sử đơn vị SOG. Toán của anh ta bị địch bao vây, phi cơ điều không FAC cho Shriver biết ‘T́nh h́nh coi bộ rất xấu’, anh ta trả lời tỉnh bơ ‘Không, không có ǵ đâu. Tôi phải đánh nhau với tụi nó tại chỗ tôi muốn – (Bị bao vây cứng bên trong ḷng địch)’. Sáng ngày 24 tháng Tư năm 1969, trong khi các phi cơ B52 cất cánh từ đảo Guam, Đại Đội Xung Kích Hatchet Force thuộc Bộ Chỉ Huy Nam (CCS) tập họp trên phi đạo Quản Lợi cách bộ chỉ huy trung ương cục miền nam khoảng 20 dặm. Đại Đội Xung Kích này có nhiệm vụ vào thanh toán chiến trường, sau khi B-52 ném bom. Năm chiếc trực thăng Green Hornet chỉ đem được hai trung đội vào vùng hành quân. Trung Đội 3 do Thiếu-Úy Bob Killebrew phải ở lại phi trường Quản-Lợi. Trung Đội 1 của Trung Úy Walter Marcantel và Trung Đội 2 do Trung-Úy Greg Harrigan nhẩyxuống bộ chỉ huy trung ương cục. Khi hai trung đội lên máy bay, các pháo đài bay B52 sửa lại đội h́nh lần cuối trước khi đến mục tiêu. Trận ném bom vừa xong, các trực thăng đáp xuống thả hai trung-đội xung kích rồi bay đi. Rồi th́ súng đạn vang dội nổ khắp nơi, các biệt-kích quân vội nhào xuống các hố bom hoặc nằm sau những thân cây mới bị B-52 đốn ngă để tránh đạn. Nằm cuối đoàn quân, Shriver gọi máy cho biết có khẩu đại liên của địch phiá trước bên trái. Khẩu này trấn áp không cho toán của Shriver ngóc đầu lên được,trong khi đó Đại Úy Cahill, Trung Úy Marcantel và y-tá Trung Sĩ Ernest Jamison báo cáo cũng bị địch đàn áp. Jamison chạy ra để cứu người bị thương bị bắn gục tại chỗ. Không ai có thể di chuyển được. Nổi điên, Shriver cùng một biệt kích quân Thượng chạy lên để thanh toán khẩu đại liên. Cả hai biến mất, không t́m ra xác. Jamison nằm chết cách hố bom chừngvài thước, Đại Úy Cahill nghe từng tràng đạn AK, B-40 của địch cầy nát mặt đất, khi ông ta ngóc đầu lên, một viên AK xuyên qua miệng, đi ngược lên trên làm hư một mắt. Bị thương nặng, ông ta gục xuống. Trong một hố bom khác, Trung-Úy Harrigan đang điều khiển trực thăng vơ trang bắn rocket và minigun cản những đợt xung phong của địch. Harrigan báo cáo đă thiệt hại hơn nửa trung đội chết hoặc bị thương. Nhờ b́nhtĩnh điều không, Trung-Úy Harrigan cầm cự được khoảng 45 phút, sau đó trúng đạn tử trận. Đại-Úy O’Rourke bay trên đầu muốn xuống nhưng chiếc trực thăng chở ông ta không qua khỏi màn lưới lửa của địch quân. Trung-Tá Earl Trabue, chỉ huy trưởng bộ chỉ huy Nam cũng không xuống được, biết phe ta đang bị tàn sát ở dưới họ đành bó tay. Cuối cùng chỉ c̣n Trung-Úy Marcantel c̣n sống, anh ta điều khiển luôn mất chiếc B57 Canberra của Úc-Đại-Lợi thuộc Phi Đoàn số 2 cất cánh từ Phan Rang vào đánh giải vây cho trực thăng vào đem rađược Trung-Úy Marcantel đă bị thương cùng chín biệt kích quân Thượng. Ba chiếc khác vào đem ra được thêm 15 quân nhân bị thương cùng xác Trung-Úy Harrigan. Cuộc hành quân coi như chấm dứt Đại-Tá Cavanaugh đến thăm hỏi các quân nhân sống sót, sau đó nói với Tướng Davidson ‘Nếu tôi biết kết qủa sẽ như vậy, tôi sẽ không đưa họ vào chỗ chết’. Tướng Davidson nhận trách nhiệm về chuyến hành quân vào bộ chỉ huy Trung Ương Cục Miền Nam. Trung Úy Marcantel b́nh phục, ông ta chết khoảng sáu tháng sau trong một chuyến nhẩy dù trong căn cứ Fort Davens, tiểu bang Massachusetts. Đại-Úy Cahill giải ngũ v́ vết thương. Xác Ernest Jamison thâu hồi được ít lâu sau. ‘Mad Dog’ Shriver cho đến nay vẫn không t́m ra xác. Được báo cáo về số tổn thất của đơn vị SOG, Tướng Abrams ra lệnh cho cơ quan MACV phân tích về sự thiệt hại của đơn vị SOG trong ṿng hai tháng đầu năm 1969. Kết quả 15 quân biệt-kích Mũ-Xanh Hoa-Kỳ chết hoặc mất tích, 68 bị thương và mười trực thăng bị rớt. Đổi lại, biệt kích SOG tiêu hủy 13 xe vận tải Molotova, giết 1400 tên cộng phỉ xâm lược, chỉ điểm mục tiêu cho phi cơ đánh bom hủy diệt các vị trí đóng quân của bọn cộng phỉ 455 lần. Tổng Thống Nixon ra lệnh cho B-52 thả bom bí mật lần thứ ba trên lănh thổ Cambodia đầu tháng Năm. Lần này trên nhiều mục tiêu trong đó co căn cứ của trung-đoàn 27 Cộng-Sản Bắc Việt. Toán biệt-kích Illinois xâm nhập vào mục tiêu, phối kiểm trận đánh bom. Toán trưởng là Trung-Sĩ Ben Thompson, toán phó là Trung-Sĩ George Bacon III xuống mục tiêu hai mươi phút khi trận đánh bom chấm dứt. Chưa được nửa ngày, toán biệt kích vừa bắn vừa chạy lấy thân, điều này chứng tỏ bom thả trên mục tiêu có nhiều địch quân. Vài tháng sau, ngày 25 tháng Tám, toán biệt kích Florida do Trung-Sĩ Ken Worthley làm trưởng toán xâm nhập vùng đông bắc Cambodia, nơi t́nh nghi có trung-đoàn 66 CSBV. Toán này có thêm Trung-Sĩ Bob Garcia, Dale Hanson và bốn biệt-kích quân Việt-Nam, tổng cộng bẩy quân nhân. Họ xuống băi đáp an toàn vào lúc trưa và bắt đầu leo lên một dốc núi cao. Đến hai giờ chiều, toán biệt kích đang ngồi nghỉ trên một sườn núi, Garcia trông thấy hai lính Bắc Việt đang ḍ t́m dấu vết của họ để lại. Anh ta bắn gục một địch quân, rồi th́ đạn AK nổ tứ phiá, th́ ra cả một đại đội lính Bắc Việt đang dàn quân ra bao vây toán biệt kích. Trong khi chạy, người hiệu thính viên Dale Hanson trúng một viên AK mất ngón giữa bàn tay trái, vừa chạy vừa băng bó, Garcia phải thay anhta mang máy. Đến gần tối, trưởng toán Worthley quyết định trốn trong một thung lũng qua đêm, họ đă rải hơi cay mắt để đánh lạc hướng chó. Sáng sớm hôm sau, họ băng qua khu rừng, khoảng 9:30, toán đang di chuyển trên một sườn đồi bỗng người dẫn đạo ra dấu im-lặng. Worthley ḅ tới trước trông thấy hai tên lính Bắc Việt nơi một con đường ṃn. Họ khai hoả giết cả hai tên, biệt kích quân hướng đạo bị thương nơi tay. Quần áo cho thấy một tên địch quân là cấp chỉ huy, đeo súng lục có thể mang cấp bậc đại-tá, tên kia có lẽ là cận vệ. Toán biệt kích lấy được túi đeo da có đựng tài liệu của tên sĩ quan Bắc Việt. Đơn vị SOG sau khi xem xét tài liệu cho biết toán Florida đă giết được một tên sĩ quan t́nh báo cao cấp của địch. Tất cả sau đó đều được trực thăng thả dây cấy cứu kéo lên. Khi về đến Kontum, một chiếc ‘Chim Đen’ C-130 của đơn vị SOG đến đem chiếc túi da của tên sĩ quan Bắc Việt về Saigon. Tài liệu trong túi da có một danh sách những điệp viên nằm vùng của địch tại Miền Nam. Tài liệu này cũng xác nhận về chuyện Thái Khắc Chuyên bị Đại Tá Robert Rheault cựu Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn 5 LLĐB/HK ra lệnh hành quyết vào tháng Năm 1969. Vài tháng sau, Đại Tá Rheault được tự do, ông ta cũng không biết nhờ công của toán biệt kích Florida. Trong một chuyến đàu tiên xâm nhập Cambodia năm 1970, toán biệt kích Vermont trên Kontum nhẩy xuống khu rừng rậm rạp trong tỉnh Ratanakiri ngày 5 tháng Giêng t́m kiếm căn cứ binh trạm của địch. Trưởng toán là Trung-Sĩ Franklin ‘Doug’ Miller, người biệt kích hướng đạo dẫm lên một sợi dây giăng ngang đường, tiếp theo là một tiếng nổ lớn làm bốn biệt kích quân bị thương. Trong phút chốc một nửa toán viên bất khiển dụng và địch đă phát giác sự hiện diện của toán. Miller phụ giúp băng bó cho những người bị thương rồi ra lệnh cho toán phó dẫn toán lên đồi lập vị trí pḥng thủ, c̣n anh ta ở lại, đương đầu với địch quân. Vừa bắn cầm chừng vừa lui về chỗ pḥng thủ, Miller liên lạc yêu cầu triệt xuất toán, sau đó dẫn toán di chuyển đến băi trực thăng nơi một hố bom lớn cách đó khoảng 175 thước. Khi chiếc trực thăng định đáp xuống bốc toán biệt kích, địch bắn lên xối xả đuổi chiếc trực thăng bay ra chỗ khác rồi tiếp tục tấn công toán Vermont. Toán biệt kích núp trong hố bom chống trả quyết liệt mặc dầu tất cả đều bị thương, kể cả trưởng toán Miller trúng đạn AK nơi tay trái. Anh ta vẫn tiếp tục hướng dẫn toán đến một băi đáp trực thăng khác, sau đó được một toán cấp cứu Bright Light đem ra an toàn. Miller đem về cho đơn vị SOG huychương danh dự thứ bẩy. Vùng đông bắc Cambodia rất ‘nóng’ (nguy-hiểm). Ngày 9 tháng Giêng, một toán biệt kích thuộc bộ chỉ huy Nam do Trung-Sĩ Nhất Larry Barlett làm trưởng toán, toán phó là Trung-Sĩ Richard Thomas trên đường di chuyển đến băi đáp cách nơi toán Vermont bị tấn công khoảng 30 dặm về hướng nam. Toán này bất ngờ bị một đơn vị địch tấn công chết cả hai quân nhân Mũ-Xanh Hoa-Kỳ. Toán cấp cứu Bright Light vào chết thêm một biệt kích quân Thượng trước khi đem xác họ ra. Ngày 11 tháng Ba năm 1970, đảo chính bên Cambodia, hàng ngàn người Miên đập phá toà đại sứ Bắc Việt và Việt-Cộng ở Nam Vang, Hoàng-Tử Sihanouk chạy qua tỵ nạn bên Pháp. Ba hôm sau, toán biệt kích Pennsylvania do Trung Úy Jerry Poole làm trưởng toán xâm nhập vùng rừng núi trong ttỉnh Ratanakiri. Toán này có thêm hai quân nhân Hoa Kỳ là Trung Sĩ Nhất John Boronski, Trung-Sĩ Gary Harned. Sau ba ngày hoạt động, họ được một trực thăng vào bốc. Khi chiếc báy may bay lên cao khoảng 100 bộ, trúng một quả B-40 nổ tung, tất cả quân nhân trên máy bay gồm toán biệt kích Pennsylvania cùng phi hành đoàn gồm Đại úy Michael O’Donnell, Chuẩn Úy John Hosken, Rudy Becerra, và Berman Gande Jr. đều thiệt mạng. Không thâu hồi xác họ được. Tin tức t́nh báo cho biết bọn cộng sản Bắc Việt đang mở rộng vùng kiểm soát trên đất Miên về phiá bắc và tây. Bọn chúng chiếm lấy tỉnh Svay Riêng trong ṿng mấy ngày, trong khi đơn vị Bắc Việt khác lấn xuống phiá nam giao tranh với quân đội Cambodia vùng Mỏ Vẹt. Trong ṿng hai tuần lễ, bọn cộng sản Bắc Việt chiếm được hai trong số mười bẩy tỉnh của Miên và bao vây thêm năm tỉnh khác, yểm trợcho quân Khmer Đỏ. Chính phủ mới bên Miên báo động cho thế giới biết về sự xâm lăng ngang ngược của bọn quân đội Bắc Việt, và Hoa Kỳ bí mật gửi sang Miên 3000 khẩu AK. Trong trung tâm nước Cambodia, ba Trung-Sĩ Troy Gilley, Ben Lyons, và Charles Chapin bí mật xâm nhập để phối kiểm tin t́nh báo về một binh trạm dành cho sĩ quan cao cấp Bắc Việt. Họ được bốc ra và ba hôm sau thả xuống một nơi gần những cḥi dành cho cấp lớn của địch. Họ gặp lính Bắc Việt di chuyẻn cùng với voi chở đồ. Quân biệt kích phục kích đánh bọn lính bắc việt một trận tơi tả, sau đó họ gọi trực thăng lên bốc về căn cứ an toàn. Troy Gilley về Saigon báo cáo về chuyến đi, anh ta biết thêm đơn vị Bắc Việt có voi tải đồ bị chận đánh có nhiệm vụ hộ tống hai tướng lănh Bắc Việt và cả hai đều chết trong trận phục kích vừa qua. Khi bắt đầu trận đánh qua đất Miên do Quân-Lực VNCH và Hoa-Kỳ đảm trách, đơn vị SOG ra lệnh đưa mấy toán biệtkích ngoài Đà-Nẵng và trên Kontum vào Ban Mê Thuột trợ lực cho bộ chỉ huy Nam (CCS). Sau đó, ngày 30 tháng Sáu, 1969, đơn vị SOG chuyển năm toán biệt kích ra Bộ Chỉ Huy Bắc, năm toán khác lên Bộ Chỉ Huy Trung, giao đất Miên hoàn toàn do QL/VNCH đảm trách. (Sài G̣n trong tôi/ A-244 Dak Pek/ Posted by Nguyễn Phúc An Sơn) |
SINH NAM . . . TỬ BẮC
2 Attachment(s)
Kinh dâng anh linh các Chiến hữu: Nguyễn Chuyên - Đinh Như Khoa - Nguyễn Hữu Thảo và các Chiến hữu đă yên nghỉ trong ḷng đất mẹ. Cá ḱnh NGUYỄN VĂN TRÂM (Sở Bắc và Sở Khai Thác Địa H́nh) Buổi chiều cuối Hạ bên bờ biển Mỹ Khê, trong ngôi nhà nghỉ mát yên tịnh. Nó không ồn ào rầm rộ như một cuộc hành quân qui mô, nhưng rất quan trọng, tỷ mỷ cẩn thận với những trang bị đặc biệt và ḿn định giờ. Tại căn cứ nầy có anh Ba là người điều khiển và huấn luyện Toán Công Tác cùng với ba người Mỹ tên Bil, Dan và Bob phụ trách kỹ thuật và thực tập. Anh Phan điều khiển và huấn luyện Toán Biệt Hải. Toán Công Tác người nhái có nhiệm vụ phá hoại gồm bốn người: Tôi (anh Tư) và anh Năm, hai đứa chúng tôi từ Liên Đoàn 77 Sở Khai Thác Địa H́nh, c̣n anh Sáu và anh Bảy do Hải Quân gởi qua. Toán Biệt Hải gồm mười hai người có nhiệm vụ lái tàu hoặc thuyền đưa Toán Công Tác đi hoạt động dẫn đường đi và đón về. Sau nhiều tháng thực tập, nghiên cứu địa h́nh, địa thế, không ảnh, kiểm soát lại dụng cụ, hôm nay là thời điểm xuất phát vào cuối mùa Hạ năm 1962. Dưới ánh sao lờ mờ, một chiếc thuyền lớn trang bị máy chạy dầu với lưới đánh cá nằm gọn dưới cột buồm. Thủy bàn gần tay lái. Một chiếc thuyền cao su chưa bơm hơi và chiếc thuyền gỗ nhỏ sức chứa độ mười ngưới. Ở giữa thuyền gỗ có một lỗ vuông tḥng xuống nước là chỗ để gắn máy nổ nhỏ cho Toán Công Tác và người hướng dẫn di chuyển trong sông. Thuyền được cải trang thành thuyền đánh cá của ngư dân trong vùng trên bờ nh́n xuống không thể phân biệt được là thuyền của Toán Công Tác. Toán nầy thương xuyên công tác ở Vịnh Hạ Long, Móng Cái, Bạch Long Vĩ. Toán Công Tác được trang bị gọn và nhẹ gồm: Hai đèn bấm điện tử để liên lạc giữa hai thuyền. Súng lục để tự vệ khi cần. Ḿn đặc biệt định giờ có thể sử dụng từ 5 phút đến 30 ngày. Một đơn vị hỏa lực nhỏ cho tập thể sử dụng khi cần để tháo chạy. Màn đêm phủ xuống, những bóng đen bắt tay từ giă trong tiếng "Good luck" của ba anh bạn Mỹ. Tiếng sóng vỗ nhẹ vào mạn thuyền nghe lách tách,thuyền hướng mũi ra khơi. Bầu trời đầy sao, nh́n quanh là biển cả bao la, với bản tính tự tin, dày dạn với công tác thường xuyên nên một số đă an giấc. Riêng mấy anh em chúng tôi c̣n ngồi hướng tầm mắt về phía trước tuy chưa phải lúc cảnh giác địch v́ một đêm và một ngày sau thuyền mới tới địa điểm công tác. Mặc dù vậy, chuyến đi bí mật vào đất địch, đầu óc luôn suy nghĩ kỹ lại những việc phải làm trong đêm mai. Đang triền miên suy nghĩ, có tiếng nhắc nhở các anh nên nghỉ đi để đêm mai mà công tác chứ. Chiều ngày hôm sau, th́ anh thuyền trưởng và thợ máy nói đến rồi. Lúc nầy thuyền c̣n đang ngoài hải phận quốc tế từ từ tiến vào bờ, khi nh́n thấy lờ mờ một giải màu xanh đậm th́ đúng chín giờ tối. Thuyền lớn thả neo, thuyền máy nhỏ đă được hạ thủy. Nhanh nhẹn mà không gây một tiếng động. Bốn chúng tôi qua thuyền nhỏ cùng ba người hướng đẫn viên nhắm cửa Sông Gianh tiến vào. Tiếng máy nổ rất nhỏ mà thuyền lướt đi rất nhanh đă qua khỏi khu Phà, chúng tôi quan sát thấy trên bờ mấy bóng đèn như đom đóm. Yên tâm, chúng tôi bắt đầu mang trang bị, dụng cụ sẵn sàng. Khi chúng tôi nh́n qua ống ḍm thấy bóng đèn xanh nhỏ phía trước. Nếu không để ư kỹ, nó như một ngôi sao trong đêm tối phía dưới là ba bóng đen đậm, đúng là tàu hải quân Cộng sản rồi, chúng đang neo tại vị trí đúng như trong không ảnh. Cho thuyền chạy qua để quan sát thật kỹ, trở lại ghi nhận điểm tiếp đón, rồi quay lại điểm thả. Anh Bảy xuống trước, đến tôi, sau cùng là anh Sáu. Lặng lẽ bơi đến gần tôi thấy rơ mục tiêu mới lặn để khỏi lạc vị trí. Tôi lặn tới gắn ḿn vào thân tàu phía dưới gần chân vịt là nơi có buồng máy. Khi tôi bắt đầu t́m hướng lặn ra xa th́ th́nh ĺnh một tiếng nổ lớn vang lên. Tôi cảm thấy đầu óc choáng váng rồi bất tỉnh một hồi lâu. Khi tỉnh lại tôi biết là ḿn nổ quá sớm. Nhờ những lườn tàu nằm cách nhau khá xa nên tôi đă thoát chết. Kế hoạch đă bị lộ. Tôi cố gắng trấn tĩnh tinh thần lặn tới vị trí tiếp đón. Khi đă xa vừa nhẹ trồi đầu lên để quan sát th́ thuyên tiếp đón đă không c̣n nữa, lại nghe một tiếng la thất thanh ở trên bờ và tiếng chân chạy vội, tôi liền lặn ra xa bờ. Lúc nầy đầu c̣n choáng váng căng thẳng, chưa tính lên bộ hay tiếp tục đi dưới nước. Quyết định là phải thoát bằng đường bộ, ngày trốn nghĩ tối đi. Từ vị trí công tác vào sông Bến Hải chỉ có một trăm cây số. Càng lo khi nghe tiếng máy động cơ của tàu địch. Nguy rồi, đèn của địch chiếu sáng rọi quét toàn vùng và di chuyển dần ra cửa biển. Khoảng cách giữa tôi và tàu không quá ba mươi thước. Hễ khi ánh đèn quét về phía tôi, th́ tôi lặn xuống, ngửa mặt nh́n lên khi không c̣n ánh sáng, ngoi lên mặt nước quan sát. Cứ thế nhiều lần như vậy. Giữa khoảng thời gian nầy tôi nh́n thấy hai chiếc xà lan không người tôi liền đứng vào giữa khe ẩn nấp. Aùnh sáng đèn vẫn t́m kiếm, càng lúc tàu chạy càng xa dần cho đến khi yên lặng. Tôi lần ṃ ra phía sau. Cuối xà lan th́ giật ḿnh v́ hai chiếc thuyền của dân cột gần đó. Im lặng quan sát hồi lâu th́ ra trên thuyền không có người. Bơi nhẹ đến gần. Một chiếc có mui kín, chiếc bên cạnh không mui, nh́n vào khoan thuyền, một tia hy vọng mỏng manh, tôi liền nhẹ nhàng nhổ cây sào lên, đẩy ra giữa gịng sông mới trèo lên thuyền. Dưới cái nón lá là cái rổ có ít tôm, rổ thứ hai là cá nhỏ, thực phẩm đây rồi. Nắng nóng mùa Hạ cứ phơi khô, gặm nhắm dần cũng được mấy ngày. Dấu vật dụng xuống dưới chổ đứng, tôi lắp chèo vào. Lúc nhỏ tôi đă thạo chèo ghe. Cứ chèo ra ngoài hải phận quốc tế th́ yên tâm. Trong người độc nhất chiếc quần xà lỏn. Lấy nón đội lên, nhờ xuôi nước nên thuyền đi khá nhanh. Trời đêm ba mươi tối đen như mực, thuyền đă ra gần cửa biển. Bất th́nh ĺnh hai ngọn đèn pha chiếu sáng ngay vào thuyền của tôi. Nguy rồi, bọn chúng đă đón ở cửa sông. Thoáng nghĩ nhanh. Ngồi xuống thả b́nh hơi, thủy bàn, đồng hồ chỉ c̣n lại cây súng lục. Dự tính ít nhất cũng hạ được mấy tên, dành cho ḿnh một viên. Suy nghĩ đổi thế th́ lỗ quá. Qua bao nhiêu tháng, năm được đào tạo, học tập, huấn luyện mà trả với cái giá như thế sao? Đến lúc nào đó quá sức chịu đựng th́ tự sát. Nhưng ánh đèn pha chói sáng choang không nh́n thấy tên nào cả, đành phải thả súng xuống nước luôn. Có tiếng hỏi từ trên tàu: Ai? Đi đâu đó? Tôi trả lời: Tôi đi mừng lưới. Hỏi: Tại sao đi có một ḿnh? Trả lời: Hôm nay vợ con bệnh, mừng chung với người ta. Dưới ánh sáng đèn pha chúng đă phát hiện ra cái áo cao su và chân vịt (chưa kịp thả, có thả nó cũng nổi trên mặt nước) dưới chổ đứng của tôi nên chúng la lên tên Biệt Kích đây rồi. Không biết bao nhiêu tiếng lên đạn, sẵn sàng nhả nạn nếu tôi có hành dộng ǵ. Chưa tính ra phải làm ǵ trong lúc cùng, th́ bốn, năm tên nhảy qua thuyền đánh đập tới tấp vào người tôi, bảo đầu hàng. Bọn chúng lấy giây trói khuỷu cánh tay tôi lại đưa vào bờ. Hai tên cầm súng chỉa vào tôi và cầm chắt sợi giây thừng khoảng cách 3, 4 thước. Trời vẫn chưa sáng. Hừng đông dẫn tôi đi, sáng ra th́ chúng bịt mắt. Trong lúc khập khễnh từng bước, bên tai nghe tiếng nói của dân đi làm hỏi ai đó các anh : Biệt Kích đó. Có tiếng ồ, to béo quá, đen thui. Đến khi chúng nó bảo dừng lại, ngồi trên chiếc ghế, trói vào một cây cột. Không nghe tiếng nói, mà chỉ nghe tiếng chân đi lại nhiều. Chiều th́ chúng đưa tôi lên vào trại Quảng B́nh. Pḥng nhỏ hôi hám, lại bị cùm cả hai chân, chúng mới mở mắt cho tôi. Phần ăn là bát cơm gạo lức đỏ, mấy cọng rau muống, làm sao nuốt vô được. ôn lại càng thắc mắc. Tại sao qua bao nhiêu ngày tháng tôi và Bill đă kiểm tra thử đồng hồ rất chính xác. Vậy tại sao? Không kể ngày đêm chúng đều kêu lên hỏi cung. Trước mặt là cái bàn nhỏ, bàn đối diện là năm tên hỏi cung, hết tốp nầy đến mấy tên khác. Chúng hỏi đơn vị, nơi xuất phát, bao nhiêu người, nhiệm vụ làm ǵ ? Tôi chỉ trả lời ra thám sát bến phà Sông Gianh, đo độ dốc bờ sông, mức nước, độ sâu. Trách nhiệm cấp trên giao cho tôi chỉ có vậy thôi. C̣n để làm ǵ th́ tôi không biết. V́ tôi bị bắt tại cửa sông mà. Mở ngoặc ở đây một tí. Chúng hỏi tôi trong Nam ăn tiêu chuẩn bao nhiêu? Ngẫm nghĩ hồi lâu tôi trả lời: Tiêu chuẩn là ǵ? Xă hội tự do làm ǵ phải có tiêu chuẩn. Tên ngồi giữa đập bàn cái rầm, làm ǵ có ăn uống bừa băi vậy. Rơ ràng mấy tên nầy đều bị mù quáng cả trong sinh hoạt. Trải qua đă hơn mười ngày. Chúng không khai thác được ǵ ở tôi. Cuối cùng chúng đưa toàn bộ vật dụng h́nh ảnh ra chứng minh và nói rằng anh là một người đại ngoan cố, tất cả đều bị bắt hết rồi. Gây tội lỗi trong Nam chưa đủ c̣n ra phá hoại thành quả Xă Hội Chủ Nghĩa ở miền Bắc! Cuối cùng tôi nhận là ra phá tàu hải quân. Một tṛ hề mà tôi đă ư thức được như sau: Một người độ hơn 50 tuổi, tự giới thiệu là luật sư, cùng đi với một người nữa độ chừng 30 tuổi, xưng là thư kư. Mỉa mai quá! Thư kư mà mang xắc cốt công an. Tôi cũng thừa biết CS làm ǵ có luật để mà căi chứ, mà có phát biểu cũng phải nói theo đường lối CS mà thôi. Ông ta nói một hơi. Tôi liền trả lời. Việc tôi làm đă rơ ràng, không cần phải biện hộ. Tự bản thân tôi trả lời cũng đủ rồi. Mấy lần sau trong câu nói của luật sư như khẩn thiết, cho nên tôi nói nhiệm vụ của ông được họ giao phó th́ tùy, hiểu biết như thế nào th́ nói như thế đó, tôi không xin xỏ, không bào chữa, v́ tôi làm việc cho Tổ Quốc, thi hành nghiêm chỉnh kỷ luật Quân đội đă giao phó. Hai mươi ngày sau th́ mở phiên ṭa. Tám giờ sáng, chúng c̣ng tay tôi và dặn nếu trên đường đi mà đồng bào có hành động ǵ th́ không được chống đối lại. Đến đây tôi mới biết mọi người đều bị bắt. Không có anh Năm và anh Bảy. Sau nầy ở chung trại tôi mới biết anh Bảy chết tại chỗ v́ ḿn nổ, c̣n anh Năm tử thương sau khi chống trả quyết liệt với chúng trên biển. Các anh kể lại rằng khi biết bị lộ, nhân viên thuyền nhỏ chạy ra thuyền lớn nhổ neo chạy thoát. Thuyền chạy cả máy lẫn buồm suốt đêm hôm đó cho đến gần trưa hôm sau th́ tàu Hải quân CS chạy máy lớn hơn nên đuổi kịp, ban đầu th́ chúng nó bắn bao vây, cố ư muốn bắt sống tất cả. Anh em trên thuyền bắn trả lại bằng trung liên BAR, súng phóng lựu. Hai bên vừa chạy vừa bắn nhau như trong phim.Vũ khí trên tàu CS th́ lớn hơn và đầy đủ, con bên thuyền th́ chỉ bắn để pḥng thân, cuối cùng hết đạn. Lúc nầy anh Năm trúng đạn, vài người khác bị thương, quyết định của thuyền trưởng là lao mũi thuyền đâm vào tàu địch, hai bên cùng tan vỡ. Vị trí lúc nầy gần Cồn Cỏ, nơi ranh giới Nam - Bắc. Tàu Hải quân máy mạnh, nên nhanh hơn. Thuyền của ta luồn lách măi sau cùng bị tàu địch càn lên ch́m. Lập tức chúng bắt những người c̣n sống đưa lên bong tàu phủ bạt kín, vội vă trở ra Bắc. Thường trong cái xui, c̣n có cái hên cho một người. Anh ta lặn núp vào trong cánh buồm. V́ đây là ranh giới giữa hai bên, bọn chúng sợ quân ta có thể tấn công nên vội vàng rút lui. Anh ta sống lênh đênh trên biển cả một ngày một đêm với một tấm ván thuyền, và vớt được vài trái cam. Nhờ tàu Hải Quân ḿnh đi tuần, anh ta cởi áo lót vẫy và được Tàu Hải Quân ta cứu thoát. Trở lại phiên ṭa quân sự Quân Khu IV. Viên Trung tá chánh án, hai Đại úy phụ thẩm, viên Thiếu tá Viện Kiểm Sát, một Thư kư, hội trường đông nghẹt người. Chúng bắt loa ra cả sân Vận Động cho dân chúng nghe. Quay phim, chụp h́nh. Mục đích của chúng bày tṛ cho thật to chuyện để nói với thế giới là miền Nam xâm phạm miền Bắc. Ghê rợn nhất là lời buộc tội của viên công tố, thôi th́ đủ điều để mà phát biểu, gán ghép bao nhiêu điều ác cho Chánh phủ VNCH. Hai luật sư biện hộ cho hơn mười người đều nói theo bản luận tội, nói là biện hộ cho nó có lệ thôi, chớ chế độ Cộng Sản làm sao dám đưa luật ra mà căi, dám nêu lên cái đúng cái sai nếu không muốn gỡ lịch hàng năm. Phiên ṭa kéo dài hai ngày đêm. Trước khi nghị án, tôi phát biểu một công dân sống trong chế độ phải làm tṛn nhiệm vụ, kỷ luật Quân đội, phải thi hành trách nhiệm được giao phó. Việc tôi làm đă rơ ràng. Ṭa xử như thế nào th́ tùy ṭa mà thôi. Uất ức, tức tối muốn điên cả cái đầu. Nếu phá được cả ba chiếc tàu không bị lộ th́ phiên ṭa hôm nay dành cho bọn chúng, chứ không phải mà anh em Chiến hữu chúng tôi. Kết thúc phiên ṭa: Tôi, tù chung thân; anh Sáu, tù 20 năm; thuyền trưởng, tù 16 năm; thuyền phó, tù 6 năm; thợ máy kiêm hướng dẫn viên, tù 18 năm; hai anh tù 5 năm; bảy anh tù 3 năm; một anh tù 2 năm v́ anh này chưa đến 18 tuổi. Bản án là một tṛ hề. Hai năm hay chung thân đều cùng chung một số phận ở tù từ 18, 20, 22 năm mới ra tù.. Sau đó chúng đưa đi các trại tù lao động khổ sai. Thôi th́ không kể xiết những cảnh lao lư cực h́nh mà bọn chúng đă hành hạ chúng tôi. Đúng! Ai có nếm mới biết mùi. Tôi muốn nêu lên vài điểm để làm sáng tỏ vấn đề thực tế cho những ai c̣n mơ tưởng về chế độ Xă Hội Chủ Nghĩa nó ác độc như thế nào. Chúng tôi đă trải qua các trại như Sơn Tây, hai lần trại Hà Giang thường gọi là cổng trời. Hà giang Bắc một đi có, về không. Trại Phú Lu Lào Cai, Tuyên Quang là trại cuối cùng. Về đây v́ CSVN sợ Trung Quốc tấn công. Quá tŕnh mấy chục năm trong lao tù tàn độc dă man của CSVN, tôi nêu lên đây những t́nh thần tranh đấu bất khuất, những thương yêu đùm bọc lẫn nhau trong hoàn cảnh cùng chung số phận. Điển h́nh và quyết liệt nhất là vụ tuyệt thực bảy ngày năm 1973 của anh em chúng tôi tại Phu Lu, Lao Cai. Ngày ấy lên hội trường họ cho chúng tôi biết đă kư Hiệp Định Paris. Lúc nào phần thắng cũng thuộc về CSVN. Theo chủ trương của Đảng. Chánh phủ, một số cán bộ lên hướng dẫn cho chúng tôi học tập, trong đó có vấn đề gọi là bồi dưỡng, rêu rao là nhân đạo nhằm mục đích nếu sau nầy có được trao trả bớt phần nào với bộ xương cách trí, da bọc xương, một bóng h́nh c̣n di động được tố cáo tội ác dă man của chế độ lao tù Cộng Sản. Họ đủ điều thuyết phục chúng tôi, bày tṛ bàn thờ Tổ quốc rồi tuyên thệ không gây thêm tội ác, cũng như phá hoại các công việc của chế độ Xă Hội Chủ Nghĩa. Trước mặt họ chúng tôi cũng ừ hữ, gật, cũng hứa hẹn, v́ đang c̣n trong cái thế phải vờ chấp nhận. Làm thế nào mà họ có thể hiểu hết được trong tiềm thức của chúng tôi. Miễn làm sao được đặt chân lên miền Nam đă. Họ giết chết cha mẹ, họ hàng, anh em, vợ con của những người dân vô tội trong dịp Tết Mậu Thân tại Huế năm 1968. Mối thù không đội trời chung với Cộng sản.Lúc nầy là thời điểm căng thẳng, bốn phía cḥi canh bốn cây đại liên sẵn sàng nhả đạn tiêu diệt, nếu chúng tôi bạo động, và toán tù h́nh sự sẽ là vật hy sinh trước. Sở dĩ v́ sao chúng tôi biết được tin tức nhờ anh em chúng có liên lạc được với tù là những phần tử bất măn, oán hờn chế độ Cộng Sản thông tin cho chúng tôi biết để đề pḥng. Từ đó chúng tôi tuyệt thực tranh đấu đ̣i trao trả, v́ anh em đă nghe đơn vị Dù được trao trả rồi. Hàng ngày tên công an trực đưa thức ăn vào đều bị anh em la ó, phản đối, tên công an đă nói rằng tôi vào đây để nghe các anh chửi bới, các anh không ăn th́ đưa về. Sau đó chúng dở tṛ thâm độc ly gián anh em để hành động dă man hầu dập tắt tinh thần đấu tranh đang dâng cao. Tên công an tự giới thiệu là người của Bộ đưa xuống tuyên bố "hôm nay các anh chuyển trại" bắt tất cả hơn trăm người tập hợp, chung quanh là bộ đội có vơ trang với tư thế sẵn sàng để đàn áp. Chúng kêu tên từng người lên xe, năm chiếc xe bắt đầu chuyển bánh. Chúng sắp đặt trước, chiếc xe đầu chở 21 người, chúng nghi là có khả năng lănh đạo, trong đó có tôi chạy thẳng lên trại Quyết Tiến Hà Giang. Mấy tiếng đồng hồ sau, bốn xe kia quay trở lại trại, lùa tất cả vào pḥng khóa cửa. Anh em tranh đấu cho rằng Cộng Sản đưa số anh em đó đi thủ tiêu rồi. Chúng kêu từng người nói là lên sinh hoạt, thật chất là đưa vào pḥng kỷ luật c̣ng chân lại, dùng thủ thuật hành hạ dă man. Chúng đánh ông già Tŕnh thuyền trưởng rụng cả hai hàm răng, các anh em khác người bầm ngực, bầm lưng, hộc máu mồm không được săn sóc chữa trị chi cả. Chúng lại chuyển tiếp một số anh em đợt hai lên Hà Giang. Pḥng kỷ luật chật hẹp, tường đất dày 5 tấc, nền nhà luôn có nước đọng, khí hậu âm u rét buốt có ngày xuống 4 độ âm, mỗi ngày ăn một chén bắp độ chừng 5 đến 60 hạt, vài hột muối trắng. Mục đích của chúng hành hạ cho đến chết th́ thôi. Số chết ở trại nầy hơn ba chục anh em. Trong một buổi sáng tên công an vào cho sinh hoạt, trước khi bắt đầu, nó bảo các anh hát một bài đi. Một anh liền trả lời: Chúng tôi chỉ biết hát nhạc vàng, không biết hát nhạc đỏ. Chúng liền đưa anh bạn ấy đi vào hầm và cùm hết chín tháng. Bản thân tôi hai lần ở trại Quyết Tiến Hà Giang. Trại nằm sâu trong rừng. Khí hậu ở đây vô cùng khắc nghiệt. Một năm cộng lại có hơi nắng vài ba tháng, c̣n lại là mưa gió, sương mù cách nhau 3 thước không nh́n thấy nhau. Những lúc này chúng tôi đều bị nhốt trong pḥng. Mỗi lẫn có gió mùa Đông Bắc thổi về cơn lạnh thấu xương. Đói lạnh, ghẻ lở vô cùng cực khổ. Làm mà không đủ mức ấn định chúng dùng h́nh thức vô nhân đạo hạ mức ăn. Lao động khổ sai nên bị cụp xương sống, rối loạn thần kinh. Một lần tôi bị kỷ luật cùm một tháng. Nguyên nhân là cái khăn lau mặt của tôi có ba sọc đỏ đem phơi ngoài trời. Một tên nào đó báo cáo với tên công an nói tôi treo cờ VNCH. Sau buổi sinh hoạt kiểm điểm chúng kết luận tôi c̣n mong đợi Chánh phủ miền Nam. "Lúc này là thời kỳ oanh tạc miền Bắc". Kể về tội ác của Cộng Sản th́ không giấy bút nào có thể tả hết những thâm độc của chúng. Hồi tưởng lại gần một phần tư thế kỷ bị giam cầm, hơn mười ba năm sống dưới ách thống trị độc tài tàn ác của chế độ Cộng Sản, con người là cái xác không hồn, già yếu và bệnh tật. Viết bài này tôi không có tham vọng nói lên điều sai hay đúng, chỉ mong mỏi những người c̣n lại, bạn đồng đội đốt nén hương để tưởng nhớ, thương tiếc và tri ơn các bạn đă hy sinh cho Tổ Quốc. Cá Ḱnh Nguyễn Văn Trâm (tên thật Nguyễn văn Hùng) đứng giữa, mặt áo trắng, ở hàng sau cùng, kế Dân Biểu Bob Dornan. Chỉ Huy Trưởng Sở Bắc, Cố Đại Tá Ngô Thế Linh đứng ở hàng sau, người cuối cùng bên tay phải. |
Những Ngày Cuối Cùng Của Trường Bộ Binh
1 Attachment(s)
Sau thời gian phục vụ tại Sư đoàn 5 Bộ Binh, tôi được thuyên chuyển về Trường Bộ Binh Thủ Đức, theo nhu cầu hoán chuyển các sĩ quan có kinh nghiệm chiến trường về các quân trường. Chức vụ sau cùng là Trưởng pḥng Kế hoạch của Trường Bộ Binh.
Trường Bộ Binh là một quân trường đào tạo các sĩ quan trừ bị cho Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa. Lúc trước, trường tọa lạc ở Thủ Đức. Đến đầu năm 1974 th́ dời ra Long Thành, một cơ sở mới nằm bên cạnh quốc lộ 15, đường Sài G̣n - Vũng Tàu và cách quận lỵ Long Thành 5 cây số. Tại đây Trường Bộ Binh kết hợp với Trường Thiết Giáp và Trung tâm Huấn luyện Yên Thế, lập thành Huấn khu Long Thành. Trung tướng Nguyễn Vinh Nghi là Chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh kiêm Chỉ huy trưởng Huấn khu Long Thành. Đến đầu tháng 4, 1975, trong lúc đất nước lâm vào t́nh trạng vô cùng nguy ngập, Quân đoàn I và Quân đoàn II đă di tản, Cộng quân vào đến Nha Trang, th́ Trung tướng Nguyễn Vinh Nghi được chỉ định ra làm Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn III, trấn đóng ở phi trường Thành Son, phía bắc thị xă Phan Rang, để ngăn chặn địch đang ào ạt tiến vô nam. gày 16 tháng 4, quân CSBV chiếm thị xă Phan Rang và phi trường Thành Son. Bộ chỉ huy Tiền phương QĐ III phải rút về phía Đông Nam ra Cà Ná. Nhưng trong đêm đó phần lớn đa bị bắt trong đó có Trung tướng Nguyễn Vinh Nghi Tư lệnh Tiền phương QĐ III, Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân, Đại tá Nguyễn Thu Lương, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Nhảy Dù v.v… Sau khi Trung tướng Nguyễn Vinh Nghi ra làm tư lệnh Tiền phương QĐ III th́ Đại tá Trần Đức Minh đang là Chỉ huy phó Truờng Bộ Binh được Bộ Tổng Tham Muu chỉ định lên thay thế làm Chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh, kiêm Chỉ huy trưởng Huấn khu Long Thành. Đầu tháng 4, 1975 Trường Vơ Bị Quốc Gia là trường sĩ quan hiện dịch, di tản từ Đà Lạt về Long Thành và tạm trú chung với Trường Bộ Binh. Hai tuần sau Trường Vơ Bị cho làm lể măn khóa, hai khóa 28 và 29 ra trường cùng một lúc, c̣n lại hai khóa 30 và 31. Cũng vào đầu tháng 4, 1975 Cộng quân bắt đầu gia tăng áp lực, mở các cuộc tấn công vào Huấn khu Long Thành. Đặc công VC đă mấy lần xâm nhập Trung tâm Huấn luyện Yên Thế, nhưng đă bị Biệt kích Lôi Hổ tiêu diệt gọn. Trường Thiết Giáp cũng bị tấn công liên tục, nhưng nhờ tài chỉ huy khéo léo với nhiều kinh nghiệm chiến trường của Đại tá Tám, nên đă giử vững được căn cứ này cho đến cuối cùng. Ngày 9 tháng 4, 1975 Cộng quân tấn công vào thị xă Xuân Lộc thuộc tỉnh Long Khánh, chỉ cách Sài G̣n 80 cậy số về hướng Đông và cách Huấn khu Long Thành chừng 20 cây số. Trong trận tấn công này lực lượng địch gồm có Sư đoàn 7 Bắc Việt làm mũi chủ công, từ hướng Đông Bắc đánh vào thị xă Xuân Lộc. Sư đoàn 341 Bắc Việt từ hướng Tây Bắc đánh vào khu vực pḥng thủ của Sư đoàn 18 Bộ Binh/QLVNCH. Riêng Sư đoàn 6 Bắc Việt đánh Dầu Giây. Quân trú pḥng ở Xuân Lộc gồm toàn bộ Sư đoàn 18 Bộ Binh và Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân/Biên Pḥng của Thiếu tá Vương Mộng Long K20/VB vừa di tản từ Quân Khu 2 về, cùng các lực lượng Địa Phương Quân và Nghĩa Quân, dưới quyền chỉ huy của Chuẩn tướng Lê Minh Đảo, Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ Binh, đă chống trả vô cùng anh dũng. Tất cả các mũi tấn công của quân Bắc Việt đều bị chận đứng. Riêng mũi chủ công của Sư đoàn 7 Bắc Việt, đă lọt vào được vài nơi trong thị xă nhưng đă bị quân ta chận đánh quyết liệt, và ngay ngày hôm sau đă bị quân ta phản kích dữ dội, hai bên giành nhau từng căn nhà, từng mảng tường. Ngày 12-4-1975 Quân đoàn III đă cấp tốc trực thăng vận Lữ đoàn 1 Nhảy Dù xuống tăng viện cho Xuân Lộc. Tiếp đó là Trung đoàn 8 thuộc Sư đoàn 5 Bô Binh, và một bộ phận của Lữ đoàn 3 Thiết Kỵ, theo hướng quốc lộ 1 từ Biên Ḥa cùng tiến lên để giải tỏa áp lực địch. Đặc biệt Không Quân Việt Nam cũng đă huy động tối đa để yểm trợ, và sự yểm trợ lần này rất là hữu hiệu, v́ ngoài phi cơ chiến thuật, Không Quân Việt Nam đă sử dụng cả phi cơ vận tải C130 cải biến để chở những khung vỉ sắt chứa nhiều quả bom hạng nặng như bom Daisy Cutter 15.000 cân Anh, bom CBU-55, mà phía Hoa Kỳ thường sử dụng để phát quang làm băi đáp trực thăng hay vị trí pháo binh, và nhiều phuy xăng JP4 dùng làm bom napalm. Máy bay, bay trên cao độ 15.000 đến 20.000 bộ để tránh pḥng không địch và được điều khiển bằng vô tuyến cho rơi đúng vào các mục tiêu ấn định. Có hai quả bom CBU-55 đă rơi trúng vào nơi đóng quân của Sư đoàn 341 CSBV, gây tổn thất nặng nề cho địch và làm cho tinh thần cán binh CSBV bị dao động mạnh v́ tưởng là bom B52. Tướng Cộng sản Trần Văn Trà đích thân xuống mặt trận xem xét t́nh h́nh, thấy không chiếm được Xuân Lộc, nên bèn quay sang đánh ṿng ngoài nhằm vào các đơn vị của Quân lực VNCH đang tăng viện về hướng Biên Ḥa. Nếu như lúc đó Hoa Kỳ chịu giúp miền Nam Việt Nam thêm một thời gian ngắn nữa, để yểm trợ cho Quân lực VNCH, chỉ bằng không lực mà thôi, th́ các sư đoàn CSBV sẽ bị tiêu diệt một cách dễ dàng, v́ họ đa công khai xuất đầu lộ diện, thật là những mục tiêu rất tốt cho pháo đai bay B52. Như thế t́nh h́nh có thể đảo ngược đuợc, như đă xảy ra ở trận chiến Triều Tiên năm 1950. Nhắc lại trận chiến Triều Tiên, ngày 25 tháng 6 năm 1950, quân đội Cộng Sản Bắc Hàn do Trung Cộng yểm trợ đánh đuổi quân đội Đồng Minh mà chính yếu là Hoa Kỳ, chạy dài từ Bắc xuống Nam cho đến tận cùng bán đảo Triều Tiên, chỉ c̣n giữ đuợc phần đất vùng Pusan, dự trù để làm đầu cầu để phản công sau này. Ngày 15 tháng 9 năm 1950, dưới sự chỉ huy tài ba của Tướng Douglas Mc. Arthur, đă điều quân xuất thần cho đổ bộ ở Inchon, một bờ biển phía Tây ngang Hán Thành, cách vi tuyến 38 về phía nam 100 dậm. Đây là một kế hoạch vô cùng tinh vi và táo bạo, đă đánh thẳng vào hậu phương địch, cắt đứt mọi đường tiếp tế lương thực đạn dược, làm cho các sư đoàn của Cộng quân đang tiến sâu về phía nam, hoàn toàn bị tê liệt, kiệt quệ, tan ră, đưa đến kết quả là 125.000 quân Cộng Sản Bắc Hàn phải ra đầu hàng. Ngày 20 tháng 4, 1975 Sư đoàn 18 Bộ Binh, Lữ đoàn 1 Nhảy Dù, và lực lượng Tiểu khu Long Khánh rút khỏi Xuân Lộc theo liên tỉnh lộ 2 về Bà Rịa. Từ đây Sư đoàn 18 Bộ Binh lên xe về Long B́nh, c̣n Lữ đoàn 1 Nhảy Dù ra bảo vệ thị xă Vũng Tàu. Cuộc rút lui diễn ra rất trật tự, tổn thất không đáng kể. Riêng Đại tá Phạm Văn Phúc, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Tiểu khu Long Khánh, đă bị thương và bị bắt trên đường rút lui. Vào đầu tháng 4/75 khi t́nh h́nh đất nước đang lâm vào t́nh trạng nguy ngập, Đại tá Minh có ra lệnh cho pḥng Kế hoạch phối hợp cùng với Trung tá Trần Văn Hạnh, Trưởng pḥng TVM (Tác Xạ Vũ Khí Ḿn), để nghiên cứu và soạn thảo một kế hoạch pḥng thủ cho thật vững chắc. Tận dụng tối đa hỏa lực cơ hửu của trường, sử dụng ḿn Claymore gài tự động, cho nuôi thêm 100 con ngỗng để tăng cường hệ thống báo động. Pḥng Kế hoạch cũng đă đề ra hai phương án để rút lui khi cần. Phương án thứ nhất là di tản chiến thuật ra Vũng Tàu. Phương án thứ hai là di chuyển về trường cũ ở Thủ Đức. Ngày 22-4-1975, Trường Bộ Binh và Truờng Vơ Bị được lệnh di tản về Thủ Đức. Trường Bộ Binh chỉ di tản một nửa quân số về Thủ Đức, c̣n một nửa quân số ở lại Long Thành, và dưới quyền chỉ huy của Đại tá Lê Văn Phú, pḥng thủ bảo vệ trường để chờ ngày trở lại. Khi về đến Thủ Đức, Truờng Bộ Binh nhận lại trách nhiệm pḥng thủ Huấn khu Thủ Đức, và đồng thời các Tiểu đoàn SVSQ sẵn sàng về tăng cường bảo vệ Thủ đô. Trong lúc này Trung tướng Nguyễn Băo Trị, Tổng cục trưởng Tổng cục Quân Huấn, chỉ định Đại tá Lộ Công Danh hiện đang là Liên đoàn trưởng Liên đoàn SVSQ của Trường Bộ Binh tạm thời thay thế Thiếu tướng Lâm Quang Thơ làm Chỉ huy trưởng Truờng Vơ Bị Quốc Gia. Đêm 26-4-1975, Cộng quân mở cuộc tấn công đại qui mô vào Huấn khu Long Thành, Trường Bộ Binh ở Long Thành bị mất liên lạc. Ở trường Bộ Binh Thủ Đức, tôi và người mang máy truyền tin, leo lên lầu nước thật cao để t́m cách liên lạc với Trường Bộ Binh ở Long Thành. Đại tá Lê Văn Phú, v́ ông ra ngoài giao thống hào ở địa thế thấp nên máy truyền tin không liên lạc xa được, nhưng nhờ tôi leo lên cao nên bắt liên lạc lại được với Trường Bộ Binh ở Long Thành. Đại tá Phú cho biết hiện Cộng quân đang mở các đợt tấn công rất ác liệt nhưng không chọc thủng nỗi pḥng tuyến quá kiên cố của ta. Ông cũng cho biết là Trường Thiết Giáp thất thủ, Đại tá Tám Chỉ huy trưởng Trường Thiết Giáp vừa mới qua họp ở Trường Bộ Binh Long Thành, trên đường về ông bị Cộng quân phục kích và bị mất liên lạc vào khoảng 6 giờ chiều. Riêng Trung tâm Huấn luyện Yên Thế th́ hoàn toàn bị mất liên lạc, im lặng vô tuyến kể từ chiều hôm đó. Đại tá Nguyễn Đức Minh liền liên lạc với Đại tá Phan Huy Lương, Tham mưu phó Quân đoàn III, để báo cáo t́nh h́nh và xin yểm trợ. Nhưng Bộ tư lệnh Quân đoàn III đă hoàn toàn không có phản ứng, v́ đang triệt thoái. Sáng sớm hôm sau, ngày 27-4-1975, tôi đi cùng với Đại tá Minh lên Biên Ḥa để t́m phương cách chống đỡ cho nửa truờng c̣n lại ở Long Thành. Đường đi lúc đó thật vắng tanh, chúng tôi gặp Thiếu tá Ḥa Quận trưởng quận Thủ Đức đang lăng xăng điều động các lực lượng của chi khu. Tôi có hỏi về t́nh h́nh trên lộ tŕnh đi, th́ ông ta khuyên không nên đi trong lúc này rất là nguy hiểm, v́ hiện đang có các trận đụng độ gần khu vực Chợ Đồn. Nhưng v́ nóng ḷng nửa trường c̣n lại ở Long Thành nên chúng tôi quyết phải đi. Khi tới Biên Ḥa, thành phố vắng lặng như một thành phố chết. Chúng tôi chạy thẳng vô Bộ chỉ huy của Tiểu khu Biên Ḥa. Khi bước vào Trung tâm Hành quân / Tiểu khu, chúng tôi không thấy Tiểu khu trưởng hay Tiểu khu phó đâu cả, mà chỉ thấy có Đại tá Thới, Tham mưu trưởng là c̣n đang làm việc. Ông hiện đang bấn loạn, v́ phải vừa lo điều động các lực lượng của Tiểu khu đang chống trả kịch liệt với địch, đồng thời phải lo phương tiện trực thăng để đi cấp cứu Trung tá Quận trưởng quận Long Thành. Đêm qua lực lượng Địa Phương Quân và Nghiă Quân của chi khu Long Thành đă anh dũng chiến đấu chống trả vô cùng quyết liệt, bắn cháy một số chiến xa địch, cầm cự cho đến sáng mới bị tràn ngập. Trung tá Quận trưởng đă chạy thoát được ra ngoài và dùng máy vô tuyến liên lạc về Tiểu khu xin cứu viện. V́ t́nh trạng quá căng thẳng của Tiểu khu Biên Ḥa, và v́ Đại tá Thới đang quá bận rộn, thấy không thuận tiện để bàn thảo ǵ được, nên chúng tôi phải rời bỏ Tiểu khu Biên Ḥa để đi thẳng vô căn cứ Long B́nh nơi đặt Bộ chỉ huy của Lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Tại đây, tôi đuợc gặp lại các bạn bè cùng các niên trưởng tay bắt mặt mừng, kể lể mọi chuyện, mà quên đi chiến trận đang gần kề. Mặc dù trong t́nh thế cực kỳ sôi động như vậy, nhưng Thủy Quân Lục Chiến vẫn giữ vững tinh thần chiến đấu, không hề nao núng, vẫn quyết tâm chận địch trên đầu dốc 47 của quốc lộ 15, và c̣n nhắn nhủ với Truờng Bộ Binh Long Thành, là phải đồng tâm hiệp lực quyết ngăn chặn không cho nón cối dép râu bước vô Sài G̣n. Đại tá Minh cứ lấy làm tiếc là đang ở quân trường gồm toàn những SVSQ đang thụ huấn, nên không có khả năng chiến đấu như các đon vị tác chiến trước đây. Nhớ lại thời hành quân sang Kampuchia năm 1970, ông là Chiến đoàn trưởng, và tôi là Sĩ quan Hành quân. Chiến đoàn 9 đặc nhiệm của Sư đoàn 5 Bộ Binh đă tấn công vào tận sào huyệt của VC nằm sâu bên kia biên giới Việt Miên, quét sạch các mật khu an toàn của VC trong vùng Lưỡi Câu, tịch thu rất nhiều kho vũ khí, lương thực, đạn dược của Cộng quân, đem lại nhiều chiến thắng vẻ vang cho Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa. Tôi xin nói thêm ở đây là các cuộc hành quân vượt biên sang Kampuchia là hoàn toàn do Quân lực VNCH đảm nhiệm, các cố vấn Mỹ lên máy bay trực thăng bay trở về, ngay khi đơn vị đi đầu vượt qua biên giới. Sau khi phối hợp cùng các đơn vị bạn, và chỉ thị rơ ràng cho Đại tá Phú xong, chúng tôi liền quay trở về Thủ Đức. Trên đường về chúng tôi thấy rơ các rương ḿn chất nổ đă được đặt sẳn hai bên cầu sông Đồng Nai. Theo như kế hoạch đă định th́ sau khi rút quân xong th́ cầu Đồng Nai phải bị giật xập không cho thiết giáp và cơ giới của Cộng quân vượt qua sông. Mà nếu Cộng quân có khả năng làm cầu nổi th́ ta sẽ dùng phi cơ oanh tạc. Trường Thiết Giáp đă thất thủ, Trung tâm Huấn luyện Yên Thế đă mất liên lạc, quận Long Thành bị tràn ngập, giờ đây Trường Bộ Binh Long Thành đương nhiên trở thành tiền đồn ngăn chặn địch mà Cộng quân quyết phải thanh toán cho bằng được để tiến thẳng về Sài G̣n. Trong đêm 27-4- 1975, Cộng quân tấn công dữ dội vào Trường Bộ Binh ở Long Thành, nhưng đă bị lực lượng pḥng thủ của trường do Thiếu tá Hồ Đắc Tùng K20 trực tiếp chỉ huy chống trả quyết liệt. Lúc đó ở Thủ Đức toàn bộ Bộ Chỉ Huy của Trường Bộ Binh đang vây quanh máy truyền tin để theo dơi. Một số gia đ́nh có thân nhân c̣n đang chiến đấu ở Long Thành cũng ngồi quanh đó. Tất cả mọi người đều hồi hợp theo dơi với tâm trạng thật là bi quan, đành bó tay chịu trận. Tôi thấy bà xă của Đại Úy Trác ngồi khóc mếu máo. Tôi c̣n nhớ lời nói mỉa mai đau khổ của Đại tá Minh: Trung Hoa Dân Quốc c̣n có đảo Đai Loan để mà chạy ra, chớ Việt Nam ḿnh không biết đi đâu?”. Hồi thời Đệ Nhứt Cộng Ḥa, Tổng thống Ngô Đinh Diệm c̣n có chuẩn bị đảo Phú Quốc để mà tử thủ. Nhưng bây giờ th́ không c̣n nghe nói ǵ đến đảo này nữa. Quân trú pḥng Trường Bộ Binh Long Thành đă anh dũng chiến đấu, cầm cự cho đến sáng. Nhưng v́ quân địch quá đông, nên sau cùng th́ Đại tá Phú phải ra lệnh cho rút lui theo như kế hoạch đă định. Sau này theo tài liệu của Cộng Sản Bắc Việt, th́ ngày 27 tháng 4, Sư đoàn 304/CSBV đă đụng độ dữ dội với các đơn vị Nam Việt Nam ở khu vực Nước Trong (VC gọi Huấn khu Long Thành là khu vực Nước Trong). Sau khi chiếm được khu vực Nước Trong rồi, nhưng khi tiến quân về hướng cầu Đồng Nai trên xa lộ Sài G̣n - Biên Ḥa, Sư đoàn 304/CSBV vẫn bị chận đánh và phải đợi đến ngày 29 mới chiếm được cầu này. Sáng ngày 30 tháng 4, 1975 vào lúc 8 giờ 30, Đại úy Nguyễn Thành Hiếu, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5/SVSQ/TBB đang chỉ huy pḥng tuyến chính mặt xa lộ báo cáo là thấy đoàn xe thiết giáp và xe motolova của cộng quân đang di chuyển trên xa lộ Biên Ḥa tiến về Sài G̣n. Tôi hết sức ngạc nhiên v́ theo như kế hoạch đă định th́ cầu Đồng Nai phải bị giật sập, không cho thiết giáp và cơ giới của VC vượt qua sông. Tôi liền liên lạc báo cáo về Biệt khu Thủ Đô. Trong lúc đó th́ Trung tâm Hành quân / BKTĐ không ra lệnh dứt khoát mà chỉ nói là tùy nghi đơn vị. Không một chút do dự, Đại tá Minh liền xác quyết trách nhiệm một cách rất rơ ràng là: “Bổn phận của chúng ta là quân đội là phải bảo vệ đất nước, thấy địch là đánh”. Tôi liền truyền lệnh của Đại tá Chỉ huy trưởng đến các đơn vị, đồng thời gọi cho Hiếu chấm tọa độ và điều chỉnh cho các khẩu đội súng cối 81 ly tác xạ. Đồng thời tôi gọi cho các pháo đội pháo binh 105 ly, 155 ly và 175 ly chuẩn bị sẳn sàng. Đây là các loại pháo binh để yểm trợ tầm xa, mà Quân đoàn III gởi tạm ở đây. Nhưng trong giờ phút quyết liệt này, tôi dự trù sẽ sử dụng để bắn trực xạ. Súng 175 ly được đặt trên thiết giáp nên dễ dàng di chuyển, điều động. Bị sức kháng cự mạnh mẽ của Trường Bộ Binh, nên cộng quân liền đổi hướng tấn công xông thẳng vào Trường Bộ Binh. Một chiếc thiết giáp T54 ủi sập chướng ngại vật ở cổng chính và chạy thẳng vào trong, vừa chạy vừa bắn phá loạn xạ. Trong khi đó th́ súng đại liên ở cầu Bến Nọc mà VC vừa chiếm được đem qua, bắn xối xả vào trường ở phía cổng số 9 tức cổng sau của Trường Bộ Binh. Lúc đó súng nhỏ bên ta bắn trả dữ dội tóe lửa vào chiếc chiến xa. Tôi thấy rơ chiếc chiến xa khi nó tới gần, súng trên pháo tháp quay qua bắn sập Trung tâm Hành quân, v́ trên nóc TTHQ có nhiều cần ăng ten nên dễ thấy. Thiếu tá Lầu thuộc Trường Tổng Quản Trị đang ở trong đó may mắn thoát nạn, trong khi đó th́ Đại tá Minh cùng Bộ chỉ huy nhẹ đang ở cách đó không xa. Khi chiếc chiến xa này chạy xuống tới cổng số 9 th́ gặp phải sức kháng cự mạnh mẽ của các SVSQ do Thiếu tá Phạm Hưng Long K20 chỉ huy giữ mặt hậu của Trường Bộ Binh, nên liền quay đầu chạy ngược lại. Chúng tôi đa t́m cách kêu gọi đối phương ra đầu hàng nhưng không có kết quả. SVSQ có thấy người lái chiến xa đứng lên dường như có ư định đầu hàng nhưng rồi lại ngồi xuống và lại tiếp tục bắn phá làm chết và bị thương một số SVSQ và quân nhân cơ hữu của Trường. Trong số đó có Thiếu tá Vương Bá Thuận bị găy chân, Trung tá Ông Nguyên Tuyền tử thương … Mặc dù chưa từng ra chiến trận nhưng phải nói là tinh thần chiến đấu của các SVSQ rất là hào hùng anh dũng. Nhưng với súng trường không thể nào hạ được chiến xa, cho nên tôi gọi Đại úy Lê Văn Ngữ, Đại đội trưởng ĐĐ663/ĐPQ là đơn vị bảo vệ trường dùng súng M72 để hạ chiếc chiến xa này. Khi nó chạy tới khu Tiếp Tân gần miếu Tiên Sư th́ bị ĐĐ663/ĐPQ bắn đứt xích nằm tại chỗ, nhưng súng trên pháo tháp vẫn c̣n quay bắn phá lung tung. Liền khi đó có một SVSQ thuộc Tiểu đoàn 1/SVSQ, đang ở pḥng tuyến gần đó, nhanh nhẹn ḅ ra leo lên pháo tháp và liệng một quả lựu đạn vào bên trong xe tiêu diệt hẳn. Đại úy Ngữ lục soát trong xe lấy được ba khẩu súng c̣n đang bốc khói mang lên tŕnh Đại tá Chỉ huy truởng và cho biết là họ đă bị khóa xích trong xe nên không thể nào ra đầu hàng được. Và liền sau đó không lâu vào khoảng 10 giờ 20 phút th́ nghe lệnh của Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố ngưng bắn chờ lệnh bàn giao. Sau đó Đại tá Minh ra lệnh cho tôi gọi cho các đơn vị ngưng chiến đấu. Tất cả mọi người đều rơi nước mắt khi nghe tin này, Đại úy Trác ̣a lên khóc. Tôi vẫn c̣n nhớ lời Đại tá Minh nói lúc đó: “Nhiệm vụ của chúng ta là quân đội là phải tuân hành lệnh thượng cấp, kêu đánh là đánh, kêu đầu hàng là đầu hàng”. Tôi bỏ về pḥng thay đồ dân sự và lập tức lấy xe gắn máy phóng nhanh ra cổng, Đại úy Băo bên Liên đoàn Sinh viên đang đứng đâu gần đó liền nhảy lên theo. Chúng tôi vừa thoát ra khỏi cổng th́ cộng quân cung vừa vô tới. Khi chúng tôi ra đến xa lộ th́ thấy đoàn xe thiết giáp và xe motolova của Cộng quân đang tiến vô Sài G̣n, mà không c̣n một lực lượng nào ngăn chặn nữa. Và vào lúc 11 giờ 30 phút chiếc chiến xa dẫn đầu cánh quân này đă tiến vô Dinh Độc Lập trong lúc Tổng thống Dương Văn Minh cùng nội các cuối cùng đang chờ đợi để bàn giao. Nhưng ngay vừa khi vừa vô đến Dinh Độc Lập th́ quân CSBV liền hiện rơ nguyên h́nh là một đội quân xâm lăng từ miền Bắc vào, chứ không có ǵ là Mặt trận Giải Phóng Miền Nam, do nhân dân miền Nam nỗi dậy, không có ǵ là ḥa giải ḥa hợp dân tộc, và không có ǵ là để bàn giao. Họ liền bắt nhốt tất cả từ Tổng thống Dương Văn Minh đến các Tổng Bộ trưởng và bắt Phó Thủ tướng Nguyễn Văn Hảo dẫn đến Kho bạc để tịch thâu 16 tấn vàng của Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam và cũng kể từ đó miền Nam Việt Nam đă thực sự mất vào tay Cộng Sản Bắc Việt. Để biết thêm chi tiết về những giờ phút cuối cùng của Trường Bộ Binh sau khi quân CSBV vào tiếp thu Huấn khu Thủ Đức, tôi xin trích đoạn trả lời của Đại tá Trần Đức Minh, vị Chỉ huy trưởng cuối cùng của Trường Bộ Binh, trong cuộc phỏng vấn với tạp chí Văn nghệ Tiền Phong, nhân kỷ niệm 25 năm ngày miền Nam Việt Nam lọt vào ṿng thống trị của cộng sản. Ông đă kể lại nhu sau: … Khoảng hơn một giờ sau khi im tiếng súng, đại diện của một đơn vị Bắc Việt đến, họ yêu cầu tôi thi hành lệnh của Tổng thống Dương Văn Minh và Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh để bảo đảm không nổ súng nữa. Tôi giao cho họ số vũ khí bắt được trên chiếc xe tăng bị bắn cháy và nói với họ lo chôn cất những người bị chết trong xe đó… … Trong khi nói chuyện, đại diện quân Bắc Việt yêu cầu tôi triệu tập Chỉ huy trưởng của các Quân trường trong Huấn khu Thủ Đức đến gặp họ. Tôi cho biết không thấy Huấn khu trưởng cũng như những người có trách nhiệm khác đâu cả. Cuối cùng họ đành bảo tôi thay mặt Huấn khu bàn giao tất cả các trường hiện có ở Thủ Đức. Tôi cho lệnh tập họp ở Vũ đ́nh trường, sau đó tuyên bố bàn giao Huấn khu Thủ Đức theo đúng chỉ thị của Chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa và Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa. … Sự việc diễn ra rất ngắn ngủi, chỉ có khoảng vài trăm người mặt mày ngơ ngác, bần thần. Rồi thoáng một cái, chẳng c̣n ai mặc quân phục nữa. Sinh viên Sĩ quan mặc đồ dân sự lủi thủi lê chân ra phía cổng chính. Tôi bùi ngùi nh́n theo tủi hổ… Chiều hôm đó đến lượt tôi trút bỏ quân phục và được yêu cầu “nghỉ riêng” ở trên lầu của tư dinh Chỉ huy trưởng. Trong khi một Bộ chỉ huy quân Bắc Việt ở dưới lầu. Đêm đó tôi lên cơn sốt, trong lúc chập chờn nửa tỉnh nửa mê, tôi đă khóc thật nhiều. Lúc này tôi mới thắm thía cảm nghiệm được cái lẽ vô thường mà trước kia tôi chỉ hiểu được bằng lư trí… … Định mệnh đă bắt tôi đóng vai tuồng “hàng thần lơ láo”, và đây là điều tủi nhục nhất trong đời tôi. Cho đến khi viết những ḍng này niềm tủi nhục ấy vẫn hằn sâu trong tâm khảm tôi, và hẳn rằng khôn khuây cho đến khi sang bên kia thế giới. Viết để nhớ lại ngày 30 tháng 4 năm 1975. Nguyễn Ngọc Thạch K20 Bài tường thuật của NT Nguyễn Ngọc Thạch viết: "Liền khi đó có một SVSQ thuộc Tiểu đoàn 1/SVSQ, đang ở pḥng tuyến gần đó, nhanh nhẹn ḅ ra leo lên pháo tháp và liệng một quả lựu đạn vào bên trong xe tiêu diệt hẳn.” Đúng ra, có tới hai SVSQ Không Quân cùng tham gia hành động anh hùng này. Mời độc giả đọc thêm bài viết của nhân chứng sống: KQ Phan Thế Nhân, Thư kư Hội Ái Hữu KQ tiểu bang NSW, Úc-đại-lợi. 30 THÁNG 4: KHÔNG QUÂN... ĐÁNH BỘ! Trận đánh cuối cùng ngày 30-04-1975 của SVSQ/KQ tại trường BB THỦ ĐỨC cũ Phan Thế Nhân Sau khi Mỹ cúp viện trợ, vào khoảng đầu năm 1975 (tôi không nhớ tháng mấy) tất cả những SVSQ-KQ chưa hoàn tất khóa học từ Mỹ về, những SVSQ-KQ thặng số chờ đi học ở VN… đều được gởi đến TBB/Long Thành để thụ huấn cấp tốc 9 tuần v́ nhu cầu chiến trường (?) Hồi tưởng lại chuyện cũ, ngày 28-04-1975 Sáng hôm đó, mặc dù tiếng súng, tiếng bom…vọng lại suốt đêm và vẫn c̣n ầm ĩ từ Long Khánh, Xuân Lộc, Biên Ḥa…, tại Trường Bộ Binh/Long Thành, như thường lệ, Đại đội tập họp, theo đội h́nh tác chiến (súng cầm tay, di chuyển 2 hàng 2 bên vệ đường) ra băi tập... Đi được khoảng 1 tiếng, lối 3-4 cây số th́ máy truyền tin PRC-25 của anh trực truyền tin mang vang lên tiếng rè rè… và thấy anh mang máy lụp xụp chạy đến vị sĩ quan cán bộ (Trung úy Nở?), người đang dẫn ĐĐ ra băi tập, sau khi đối đáp ǵ đó với BCH trường, Trung úy Nở ra lệnh cho đoàn quân dừng lại, ra lệnh đổi băng đạn trống không trong súng bằng băng đạn thật, khoá an toàn cẩn thận (hằng ngày ra băi, súng không có đạn, nhưng v́ t́nh h́nh chiến sự lúc đó, trong balô mỗi khóa sinh đều phải mang theo 1 cấp số đạn thật là 7 băng). Sau đó Đại đội được lênh quay trở về, khi đă về tập họp đầy đủ, được 5 phút đem tất cả "sac marin" và đồ dùng cá nhân ra tập trung tại sân Đại đội, cho biết là sẽ có xe chở theo sau, chỉ được mang theo tiền bạc, đồ có giá trị… Đó là lần cuối cùng nh́n thấy thư từ, đồ kỷ niệm gia đ́nh bạn bè người thân gởi… Một đoàn xe nhà binh thật dài chạy đến, tôi không biết rơ là bao nhiêu v́ nhiều lắm, cả trường BB Long Thành di chuyển mà, sau khi tất cả mọi người lên xe, xe bắt đầu di chuyển về hướng Saigon, lúc đó chúng tôi vẫn chưa biết ḿnh đi đâu nữa, đi đâu th́ đi, lính mà. Trên đường vắng ngắt, không thấy chiếc xe nào chạy ngược chiều, thỉnh thoảng có 1-2 chiếc xe tăng và Quân cảnh làm nút chặn trên đường. Cuối cùng đến một nơi mà đối với tôi hoàn toàn xa lạ, sau nầy mới biết là Trường BB Thủ Đức cũ, có lẽ đă sắp xếp sẵn, Đại đội chúng tôi được lệnh xuống xe và đóng rải rác xung quanh một căn nhà mát, sau nầy tôi mới biết đó là Khu Tiếp Tân của Trường BB Thủ Đức, h́nh ảnh đầu tiên đập vào mắt tôi là một chiếc xe tăng với một khẩu đại bác thật to và dài, nằm trên xe, bửng xe chịu xuống đất ṇng hướng về phía cổng ra vào, hạ sát xuống như sẵn sàng trực xạ (bên phải là Trường Cảnh Sát). Đại đội được bố trí chung quanh nhà mát, trung đội tôi nằm dọc theo nhà mát hướng ra cổng chính. Bên phải là một con đường nhựa chạy từ cổng chính vào với hai hàng cây bă đậu hai bên đường rủ đầy bóng mát, bên kia đường là một lô cốt xây bằng đá xanh thật cao hướng thẳng ra cổng chính, trước mặt là chiếc xe tăng với khẩu đại bác, bên trái là một dăy (hào) mô đất cao chạy dọc theo ṿng đai từ cổng chánh bao bọc chung quanh trường, ngoài mô đất nầy là một tiền đồn giống như một đồn của Địa phương quân, mỗi đêm có một tiểu đội thay phiên nhau ra đóng tiền đồn, đối diện tiền đồn là một con đường đất đỏ, bên kia con đường là một nhà Bảo sanh có bảng hiệu đàng hoàng. Sau khi bố trí vị trí từng cá nhân xong chúng tôi được lệnh phải đào hố cá nhân ngay lập tức... Chu choa… mấy năm nay đă nằm ở nhiều quân trường từ Quang Trung, TTHLKQ Nha Trang, Trường BB Long Thành chỗ nào người ta cũng đă đào sẵn giao thông hào, mỗi khi báo động có pháo kích th́ chỉ việc chạy ra, ngó qua ngó lại t́m chỗ nào khô, không có nước là nhảy đại xuống, c̣n bây giờ th́…xẻng cá nhân (c̣n mới tinh trong bao) phải mở ra tự đào lỗ để tránh đạn, khổ ơi là khổ, lại thêm cái khổ nữa chỗ nầy là chỗ thăm nuôi đông người đi lại nên nhà thầu đổ đá để làm móng cho chắc nên thằng nào thằng nấy đào bá thở, mồ hôi nhễ nhại mà có được bao sâu đâu, lại thêm mấy ông cán bộ cơ hữu cứ đi ṿng ṿng nhắc nhở hoài cuối cùng cũng tàm tạm được, ngồi xuống cái đầu vẫn c̣n ló lên. Chiều xuống, sau khi cơm nước xong, c̣n đang nằm ph́ phà điếu Ruby Quân Tiếp Vụ th́ có vài người chỉ lên trời, có mấy chiếc phản lực bay rất cao, người th́ nói F4 kẻ th́ căi F5, ḿnh th́ không biết ǵ hết, chỉ biết là máy bay phản lực, vài phút sau có người la lên và chỉ về hướng Saigon, một đoàn trực thăng khoảng vài chục chiếc xếp hàng một bay lên bay xuống có lẽ đang di chuyển người, sau nầy mới biết là Mỹ di tản người, tối đến, đoàn trực thăng vẫn tiếp tục mở đèn lên xuống như những con đom đóm không biết bao giờ mới ngưng… Ầm ầm tiếng súng đại bác từ đâu đó ở phía trong trường bắt đầu bắn đi yểm trợ quân bạn, mặc dù thỉnh thoảng giật ḿnh v́ lần đầu tiên nằm gần một đơn vị pháo binh nhưng v́ quá mệt mỏi sau khi đào hố cá nhân hồi trưa nên cũng chập chờn qua đêm. Sáng hôm sau t́nh h́nh vẫn yên ổn mặc dù thỉnh thoảng nghe báo cáo có xe tăng xuất hiện ở cổng sau. Tối đến tiểu đội tôi đến phiên trực cao ốc nằm phía bên kia đường, đối diện khu tiếp tân, bên phải cổng chính. Đêm vẫn yên tĩnh, vẫn ầm ầm tiếng pháo binh bắn đi, vẫn thay phiên 2 tiếng trực gác, nh́n trời hiu quạnh, không một bóng người chung quanh. 6 giờ sáng, tiểu đội trở về khu tiếp tân, sau khi vệ sinh cá nhân xong th́ có lịnh báo động, xe tăng VC xuất hiện ở cổng sau rồi biến đâu mất, vẫn ngồi trong hố cá nhân th́…ầm ầm, (không rơ 1 hay 2 tiếng) súng xe tăng VC phá mấy thùng phuy cát để ở cổng chính làm chướng ngại vật, và tiếp theo đó súng cá nhân nổ như pháo tết, lúc đó tôi mới nghe tiếng xe tăng VC chạy thật nhanh vào trường BBTĐ, đến ngă 3 nó dừng lại quay súng về hướng lô cốt, thấy vài người chạy vào lô cốt, nó bắn đùng 1 phát, lúc đó có ai đó la to: “Bắn vào pháo tháp nó, bắn vào pháo tháp” tôi nh́n lên th́ thấy pháo tháp mở, có cây đại liên trên đó nhưng không thấy xạ thủ. Sau khi bắn vào lô cốt xong nó chạy thật lẹ qua hướng tay phải dọc theo con đường có hàng cây bă đậu biến mất, lúc đó th́ mấy người lúc trước chạy vô lô cốt lại chạy ra, hú hồn không ai chết hay bị thương ǵ cả, lúc đó anh bạn SVSQ-KQ ngồi hố trước mặt mới quay lại cằn nhằn: “Mày bắn gần quá, bả thuốc đạn văng vô cổ áo tao nóng quá” tôi mới xin lỗi, lần đầu tiên bắn VC mà, chưa có kinh nghiệm, thông cảm. T́nh h́nh lúc đó thật căng thẳng, thật yên lặng, súng phía cổng và khu tiếp tân chúng tôi đă im tiếng, v́ xe tăng VC chạy đâu mất rồi, lúc nầy th́ có vài anh em chạy ra bên ngoài giao thông hào nằm chĩa súng vô trong, ai đó lại la: “Coi chừng VC ở ngoài” họ lại leo vô, đúng là lính chưa có kinh nghiệm. Bây giờ chỉ c̣n tiếng rè rè của máy truyền tin…các nơi báo cáo nó đang ở chỗ nầy, đang chạy qua hướng nọ… Khoảng nửa tiếng sau th́ nghe tiếng súng rộ lên từ phía đường bên trái, nó đang chạy hướng ra cổng, phe ta bắn theo như mưa, đến ngă 3 th́ tôi thấy rơ 2 quả M72 bắn vào đít nó th́ một quả bay xẹt lên trời, c̣n 1 quả th́ dọng xuống đất, nó vẫn chạy ra hướng cổng, lúc đó có một ông, không biết là SVSQ-KQ hay cơ hữu, bỏ hố cá nhân đứng dậy vác M72 chạy ra quỳ xuống, ai đó la to: “Coi chừng lửa thụt hậu” tôi thụt đầu xuống hố cá nhân th́ nghe “ầm” và ai đó la to: “Đứt xich rồi, đứt xích rồi”, nó chỉ khựng lại một vài giây rồi chạy tiếp bỏ lại sợi xích bên trái trên đường, tiếng súng lại rộ lên ở hướng cổng, thấy anh em ở hướng đó bỏ hố cá nhân tràn lên mô đất giao thông hào chĩa súng ra, lúc đó tôi thấy xe tăng VC rẽ về bên trái, chạy về hướng nhà bảo sanh và h́nh như hơi lạ nó chạy bên lề đường và tiếng máy gầm rú dữ dội, nh́n kỹ th́ ra nó bị kẹt bánh không có xích dưới lề đường chỗ đường mương để nước mưa chảy hai bên lề đường, nó ráng nhưng không lên được, nó lết đến ngay cửa nhà bảo sanh cũng là nơi đối diện khu tiếp tân, pháo tháp từ từ hạ xuống, ai đó lại la to: “Nó bắn vô đó”, không ai bảo ai tất cả đều nhào xuống giao thông hào. Nó bắn thật, nhưng cũng may súng nó hạ thấp tối đa cũng chỉ bắn trúng ngọn cây bă đậu, làm cây lá rớt đầy đầu cổ anh em nhưng không có ai bị thương, sau khoảng hơn chục quả th́ im lặng, nó hết đạn rồi… Anh em lại tràn ra giao thông hào dùng súng M16 bắn tiếp. Một lúc sau tôi thấy có hai bóng người leo qua ṿng rào bao cát tiền đồn ḅ về hướng xe tăng VC lúc đó nằm yên như đống sắt, ai đó lại la to: “Bắn lên trời, bắn lên trời, phe ta ḅ ra” tiếng súng vẫn nổ như mưa nhưng tất cả đều bắn lên cao, nhanh như cắt hai bóng người ở hai phía cùng lúc nhảy lên xe lần lượt ném hai quả lựu đạn vào pháo tháp mở trống rồi nhảy xuống chạy vào, hai tiếng nổ thật ấm: Uỳnh uỳnh, yên lặng, sau đó vài tiếng nổ lách tách và xe tăng VC từ từ bốc cháy, anh em trong khu tiếp tân đứng lên reo ḥ vang dậy (sau này mới biết bộ binh VC nằm đầy chung quanh nhưng không hiểu v́ sao không cứu chiếc xe tăng đó). Một lúc sau, nghe tiếng anh em từ hướng cổng reo ḥ ầm ĩ, tôi nh́n ra th́ thấy trên xe jeep của chỉ huy trưởng (tôi không nhớ là ai, v́ lúc đó c̣n trẻ ham chơi, không cần biết ai là xếp ḿnh hết), một SVSQ-KQ tay cầm một khẩu AK chiến lợi phẩm lấy được từ pháo tháp xe tăng, được chỉ huy trưởng chở đi khắp trường BBTĐ để anh em hoan hô. Không lâu sau đó, nh́n nét mặt thẫn thờ của anh truyền tin tḥ tay mở hết volume của máy truyền tin cho anh em nghe lời kêu gọi buông súng chờ bàn giao của Tổng thống Dương Văn Minh, và kế tiếp là lời kêu gọi của chỉ huy trưởng trung tâm là các đơn vị nhận được lệnh buông súng phải bắn trái sáng màu trắng lên trời để VC không nổ súng tấn công….Thế là hết Việt Nam Cộng Ḥa đă bị khai tử… Nh́n ra hàng rào, ẩn hiện dưới góc nhà, gốc cây, dầy đặc lính chính quy VC mặc đồng phục cầm AK. Trong sự yên lặng chờ đợi th́ bất ngờ một tràng súng đại liên M60 nổ ḍn ở hướng cổng rồi im bặt. Có lẽ của một anh nào đó không muốn đầu hàng VC. Một lúc sau th́ một chiếc xe jeep của ḿnh dẫn đầu một đoàn xe Molotova chở đầy VC vơ trang súng đạn đầy ḿnh từ từ tiến vào, rải giấy thông hành, truyền đơn kêu gọi về quê làm ăn. Để an toàn, tôi cúi xuống lượm một tờ giấy thông hành nhét vào túi rồi cùng anh em đi ra cổng. Phan Thế Nhân Hội AHKQ-NSW, AUSTRALIA (nguồn: Lư Tưởng – Úc Châu) CHÚ THÍCH của Lư Tưởng – Úc Châu: SVSQ Nguyễn Kim Đỉnh (Hội AHKQ Queensland, Úc-đại-lợi), một người nằm tại tuyến đầu lúc đó, đă mục kích tận mắt chiến tích này của hai chàng SVSQ/KQ điếc không sợ súng vào giờ thứ 25! Về việc bộ đội VC lúc đó nằm đầy chung quanh nhưng không cứu chiếc xe tăng, theo suy luận của chúng tôi, rất có thể v́ chúng chưa biết “lực lượng” của ta gồm những đơn vị nào, mạnh yếu ra sao, cho nên cứ án binh bất động để giữ mạng cùi! |
30-4-1975 Những Giờ Phút Cuối Cùng
- Hơn 1 ngàn Cộng quân tử trận, 32 chiến xa CSBV bị bắn cháy trong trận chiến sáng ngày 30-4-1975 tại pḥng tuyến Sài G̣n
Vào những ngày cuối cùng của tháng 4/1975, trong khi những người lănh đạo tối cao của quốc gia và quân đội t́m mọi cách để ra đi, th́ tại mặt trận ṿng đai Sài G̣n và ngay trong Thủ đô của Việt Nam Cộng Ḥa, người lính Quân lực VNCH từ anh binh nh́ cho đến các trung đoàn trưởng, lữ đoàn trưởng... thuộc các binh đoàn bộ chiến, vẫn giữ vững tay súng tử chiến với Cộng quân đến phút cuối cùng. Từ 0 giờ sáng đến 10 giờ ngày 30/4/1975, trên các cửa ngơ vào thủ đô Sài G̣n, những người lính Bộ binh, Nhảy Dù, Biệt kích Nhảy Dù, Biệt động quân, Thiết giáp, Thủy quân Lục chiến... đă đánh trận cuối cùng trong đời lính của họ: 32 chiến xa và gần 30 quân xa Cộng quân bị bắn cháy, hơn 1,000 Cộng quân tan xác... Đó là chiến tích của người lính VNCH tại mặt trận Thủ Đô Sài G̣n trong buổi sáng cuối cùng của cuộc chiến, trước khi ông Dương Văn Minh ra lệnh Quân lực VNCH buông súng vào lúc 10 giờ 15 phút ngày 30/4/1975. Trong những giờ phút cuối cùng này, tại Sài G̣n, trái tim của Việt Nam Cộng Ḥa, có rất nhiều sự kiện diễn ra dồn dập, những trận đánh hào hùng và bi tráng của một số đơn vị Nhảy Dù, Biệt Cách Nhảy Dù... trước giờ G. - Bộ Tổng Tham Mưu QL/VNCH, những giờ cuối cùng: Trưa ngày 29 tháng 4/1975, các vị tướng có thẩmquyền tại Bộ Tổng tham mưu Quân lực VNCH đă ra đi. Đại tướng Viên rời Việt Nam từ chiều 28/4/1975 cùng với Chuẩn tướng Thọ (trưởng pḥng 3); Trung tướng Đồng Văn Khuyên, Tham mưu trưởng Liên quân Bộ Tổng tham mưu kiêm Tổng cục trưởng Tiếp vận ra đi vào lúc 11 giờ 30 ngày 29/4/1975. Trung tướng Nguyễn Văn Minh, Tư lệnh Biệt khu Thủ đô cũng đă "chia tay" với các cộng sự viên của ḿnh từ sáng ngày 29/4/1975. Để có tướng lănh chỉ huy Quân đội, tân Tổng thống Dương Văn Minh đă cử một số tướng lănh và cựu tướng lănh giữ các chức vụ trọng yếu: Trung tướng Vĩnh Lộc giữ chức Tổng Tham mưu trưởng; Nguyễn Hữu Hạnh, Chuẩn tướng, đă về hưu từ tháng4/1974, làm Phụ tá Tổng tham mưu trưởng; cựu Thiếu tướng Lâm Văn Phát, được cử làm Tư lệnh Biệt khu Thủ Đô; chuẩn tướng Lê Văn Thân, nguyên Tư lệnh phó Quân khu 2,làm Tư lệnh phó phụ giúp Tướng Phát; Chuẩn tướng Nguyễn Văn Chức, nguyên Cục trưởng Công binh, Thứ trưởng Định cư trong Nội các Nguyễn Bá Cẩn, giữ chức Tổng cụctrưởng Tiếp vận. Sau khi nhận chức Tổng tham mưu trưởng, chiều 29/4/1975, Trung tướng Vĩnh Lộc đă triệu tập một cuộc họp với các tướng lănh và sĩ quan cao cấp đang c̣n ở lại Sài G̣n tại pḥng họp bộ Tổng Tham Mưu và yêu cầu "mọi người đừng bỏ đi, hăy ở lại để làm việc vớitất cả trách nhiệm". - Trận chiến tại các cửa ngơ vào Sài G̣n: Tại pḥng tuyến Củ Chi, tối 29/4/1975, toàn bộ quân trú pḥng và bộ Tư lệnh Sư đoàn 25 Bộ binh mở đường máu về Hóc Môn. Riêng Chuẩn tướng Lư Ṭng Bá, Tư lệnh Sư đoàn và một Thượng sĩ cận vệ tên Ngọc đă phải thay nhau làm khinh binh với chiến thuật cá nhân để thoát khỏi ṿng vây của Cộng quân. Cuối cùng vị tư lệnh Sư đoàn 25 Bộ binh bị lọt vào tay địch khi ông và người cận về gần đến Hóc Môn. Tại mặt Nam của Sài G̣n, ngay từ ngày 28/4/1975, bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô không c̣n quân trừ bị để giải tỏa áp lực của Cộng quân. Một liên đoàn Biệt động quân đang hành quân dọc theo quốc lộ 4 phía nam Bến Tranh đă được điều động về quận lỵ Cần Đước theo liên tỉnh lộ 5A vào buổi trưa và đặt dưới quyền điều động của bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Liên tỉnh lộ nối liền Chợ Lớn và Cần Đước cũng bị cắt nhiều đoạn nên các lực lượng VNCH không thể phá vỡ được các chốt chận của Cộng quân tại cầu Nhị Thiên Đường (khu vực này bị Cộng quân chiếm từ rạng sáng ngày 29/4/1975). Trong khi trận chiến xảy ra tại nhiều nơi th́ kho đạn Thành Tuy Hạ lại bị pháo kích nặng nề nên phát nổ nhiều nơi. Hệ thống truyền tin liên lạc với bộ chỉ huy Kho đạn bị mất vào lúc 1 giờ chiều. Xe tăng Cộng quân xuất hiện tại Cát Lái và bắn vào cầu tàu chất đạn chưa được bốc dỡ. Tại cụm pḥng tuyến khu vực từ ngă tư Quân Vận (gần trung tâm huấn luyện Quang Trung) đến cầu Tham Lươn Bà Quẹo; B́nh Thới-Ngă ba Bà Quẹo; Bảy Hiền-Lăng Cha Cả, đơn vị Nhảy Dù pḥng ngự tại đây đă nỗ lực ngăn chận Cộng quân. Những người lính Dù không hề nao núng, b́nh tĩnh chuẩn bị cho trận đánh giờ thứ 25. Tại ṿng đai Bộ Tổng Tham Mưu, một chiến đoàn thuộc Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù do thiếu tá Phạm Châu Tài chỉ huy đă dàn quân chận địch, từ 8 giờ sáng đến 10 giờ sáng, chiến đoàn này đă bắn cháy 6 chiến xa Cộng quân và nỗ lực đánh bật địch ra khỏi trận địa. - Những trận đánh trước giờ G... Từ sáng sớm ngày 30 tháng 4, tại các mặt trận quanh Sài G̣n và Biên Ḥa, các đơn vị của Sư đoàn 5BB, Sư đoàn 18BB, Lữ đoàn 3 Thiết kỵ, các đơn vị Dù, Thủy quân Lục chiến, Biệt động quân... đều đặt trong t́nh trạng sẵn sàng ứng chiến để chận đánh Cộng quân. Tại bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, Thiếu tướng Lâm Văn Phát từ sáng sớm đă dùng trực thăng bay quan sát t́nh h́nh, vừa đáp xuống bộ Tư lệnh ông gọi máy liên lạc với Chuẩn tướng Tần, sĩ quan cao cấp nhất của Không quân vào lúc đó. Tướng Phát yêu cầu Tướng Tần cho các phi tuần khu trục liên tục oanh kích Cộng quân đang chuyển quân dọc theo con đường từ ngả tư Bảy Hiền lên đến Hóc Môn. Trong khi các đơn vị VNCH đang nỗ lực đẩy lùi Cộng quân ra khỏi bộ Tổng tham mưu, th́ vào 10 giờ 15 phút, tân Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh cho Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa ngưng chiến. Trước đó vài phút, chiến đoàn Biệt Cách Dù đang tung các đợt phản công để đánh bật địch quanh ṿng đai Bộ Tổng Tham Mưu. Khi nhận được lệnh ngưng bắn, Thiếu tá Phạm Châu Tài, chiến đoàn trưởng Biệt Cách Dù đă lấy xe jeep vào Bộ Tổng Tham Mưu, ông được anh em binh sĩ gác cổng cho biết là Trung tướng Vĩnh Lộc, Tân Tổng Tham mưu trưởng, đă ra đi lúc 6 giờ sáng, tất cả tướng lănh và các đại tá đă họp với Thiếu tá Tài về kế hoạch pḥng thủ Tổng hành dinh bộ Tổng Tham mưu trong đêm 29/4/1975, cũng không c̣n ai. Trước t́nh h́nh đó, Thiếu tá Tài đă bốc điện thoại quay số gọi về văn pḥng Tổng Tổng phủ, gặp Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh ở đầu giây. Ông Hạnh hỏi Thiếu tá Tài là ai? Vị chiến đoàn trưởng đă trả lời: "Tôi là chiến đoàn trưởng Biệt cách Nhảy Dù đang trách nhiệm bảo vệ bộ Tổng tham mưu, tôi xin được gặp Tổng thống". Vài giây sau, thiếu tá Tài nghe tiến ông Dương Văn Minh nói ở đầu máy: "Đại tướng Dương Văn Minh nghe đây, có chuyện ǵ đó?" Thiếu tá Tài tŕnh bày: "Tôi đang chỉ huy cánh quân tử chiến với Cộng quân ở Bộ Tổng Tham mưu th́ có lệnh ngưng bắn, nhưng Cộng quân vẫn tiến vào, tôi đă liên lạc với bộ Tổng Tham mưu nhưng không có ai, nên muốn nói chuyện với Tổng thống là Tổng Tư lệnh Tối cao của Quân đội để xin quyết định." Tướng Minh trả lời: "Các em chuẩn bị bàn giao đi!". Thiếu tá Tài ngạc nhiên hỏi lại: "Bàn giao là như thế nào thưa Đại tướng, có phải là đầu hàng không?", Tướng Minh đáp: Đúng vậy, ngay bây giờ xe tăng Việt Cộng đang tiến vào Dinh Độc Lập. Nghe tướng Minh cho biết như vậy, Thiếu tá Tài nói ngay: "Nếu xe tăng Việt Cộng tiến vào dinh Độc Lập, chúng tôi sẽ đến cứu Tổng thống". Tướng Minh suy nghĩ, Thiếu tá Tài nói tiếp: "Tổng thống phải chịu trách nhiệm trước 2 ngàn cảm tử quân đang tử chiến với Cộng quân ở bộ Tổng tham mưu." Tướng Minh trả lời: "Tùy các anh em". Theo lời Thiếu tá Tài, sau này, khi bị CQ giam trong trại tù, ông đă găp trung tá Vơ Ngọc Lan, Liên đoàn trưởng Liên đoàn pḥng vệ Tổng thống Phủ. Trung tá Lan nói với Thiếu tá Tài: "Lúc đó, moa đứng cạnh ông tướng Minh, moa nghe toa nói vào cứu Tổng thống". Thiếu tá Tài giải thích: "Tổng thống là vị lănh đạo tối cao của Quân lực, phải cứu ông ra để có người chỉ huy Quân đội". *************** Tài Liệu Đặc Biệt: Mật Tŕnh Của Tướng Weyand & Tài Liệu Tướng Nguyễn Văn Hiếu - Từ chuyến viếng thăm VN của Đại tướng Weyand, đến cái chết bí ẩn của Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư lệnh phó hành quân Quân đoàn 3, ngày 8-4-1975. Như đă tŕnh bày, vào tuần lễ cuối cùng của tháng 3/1975, Tổng thống Ford đă cử Đại tướng Frederick C. Weyand, Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ, đến Việt Nam để t́m hiểu t́nh h́nh. Đại tướng Weyand là một vị tướng đă từng phục vụ ở chiến trường Việt Nam qua nhiều chức vụ khác nhau: Tư lệnh Sư đoàn 25 Hoa Kỳ, Tư lệnh Bộ chỉ huy tiền phương Lực lượng 2 đặc nhiệm, Tư lệnh phó bộ Tư lệnh Quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam (tư lệnh là Đaị tướng Creighton W. Abrams), sau cùng là Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Yểm trợ Hoa Kỳ (MACV). Đại tướng Weyan đă thăm và t́m hiểu t́nh h́nh VN từ ngày 28/3/1975 đến ngày 4/4/1975. Trở về Mỹ, ông đă làm một phúc tŕnh đặc biệt lên Tổng thống Ford về t́nh h́nh VN và những đề nghị khẩn cấp để cứu nguy VNCH. Bốn ngày sau khi Đại tướng Weyand rời VN, vào ngày 8 tháng 4/1975, trong khi Cộng quân khai triển lực lượng để mở cuộc tấn công vào Long Khánh, th́ tại Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 ở Biên Ḥa, Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư lệnh phó Quân đoàn 3, đă chết một cách bí ẩn ngay tại văn pḥng. Những người gần văn pḥng của Tướng Hiếu nghe 1 tiếng súng nổ, 1 đại tá chạy qua th́ thấy Tướng Hiếu nằm bất động trên chiếc ghế bành bàn giấy. Một gịng máu tươi chảy chan hoà xuống mặt và ngực. Một viên đạn đă xuyên qua trán đi thẳng lên óc. Viên đạn này c̣n trớn bay lên trần nhà, soi thủng một lỗ. - Tập tài liệu đặc biệt "Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu", và những bí mật về những phúc tŕnh của Sứ quán Mỹ tại Sài G̣n, và của Đặc sứ Tổng thống Mỹ. 30 năm sau ngày VNCH bị bức tử, những bí ẩn về cái chết của Tướng Nguyễn Văn Hiếu, từng là Phụ tá Phó Tổng tổng thống VNCH Trần Văn Hương đặc trách bài trừ tham nhũng, cùng những tài liệu mật về những phúc tŕnh của Đại sứ Bunker, của các tướng lănh Mỹ, đă được công bố qua tập tài liệu: "Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu, Một viên ngọc quân sự ẩn tàng", dày 546 trang, khổ giấy lớn, do ông Nguyễn Văn Tín, em ruột của Tướng Hiếu, sưu tầm và biên soạn với tất cả tấm ḷng của một người em đối với người anh được đồng đội vinh danh là "dũng tướng". Tập tài liệu vừa được phát hành vào cuối tháng 4/1975. Theo ghi nhận của một số cựu sĩ quan cao cấp và cựu viên chức Chính phủ VNCH, đây là tập tài liệu có giá trị về phương diện lịch sử và chiến sử với những bài viết, tài liệu về các cuộc hành quân lớn trên chiến trường VN, về sự tham chiến của Hoa Kỳ tại VN, về thực trạng chính trị xă hội VN, thông qua đời binh nghiệp của Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu từ khi theo học khóa 3 sĩ quan hiện dịch trường Vơ bị Liên quân Đà Lạt năm 1950 cho đến tháng 4/1975 qua các chức vụ: sĩ quan pḥng 3 Bộ Tổng tham mưu, Trưởng pḥng Quân đoàn 1, Tham mưu trưởng Sư đoàn 1 Bộ binh, Tham mưu trưởng Quân đoàn 1, Quân đoàn 2, Tư lệnh Sư đoàn 22, Tư lệnh 5 Bộ binh, Tư lệnh phó Quân đoàn 1, Phụ tá Phó Tổng thống đặc trách bài trừ tham nhũng, và chức vụ cuối cùng là Tư lệnh phó đặc trách hành quân của Quân đoàn 3. - Báo cáo lượng định t́nh h́nh VNCH của Đại tướng Weyand đệ tŕnh lên Tổng thống Ford. Trở lại chuyến thị sát t́nh h́nh VN của Tướng Weyand, sau khi trở về Mỹ, vị đại tướng này đă làm phúc t́nh lên Tổng thống Ford. Phúc tŕnh này đă được dịch và phổ biến trong tập tài liệu " Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu" (trang 315-328). Sau đây là những điểm chính của bản phúc tŕnh mà Đại tướng Weyand đệ tŕnh lên Tổng thống. - Phần mở đầu, Đại tướng Weyand viết như sau: "Vâng theo chỉ thị của Tổng Thống, tôi đă viếng thăm Nam Việt Nam trong thời gian từ 28/3 đến 4/4. Tôi đă hoàn tất công việc lượng định t́nh h́nh hiện tại đó, đă phân tách Chính Phủ Cộng Ḥa Việt Nam có những dự tính nào để phản công sự gây hấn từ phía Bắc Việt, đă cam kết với Tổng Thống Thiệu sự hỗ trợ kiên tŕ của Tổng Thống trong thời gian khủng hoảng này, và đă kiểm điểm các lựa chọn và các đường lối hành động mà Hoa Kỳ có thể thi hành để trợ giúp Nam Việt Nam." "T́nh h́nh quân sự hiện tại đang lâm vào t́nh trạng gây cấn, và sự tồn tại của Nam Việt Nam trong tư thế một quốc gia đứt đoạn tại các tỉnh phía nam thật là mong manh. Chính Phủ Nam VN đang bên bờ vực thẳm của một sự thất bại quân sự hoàn toàn. Tuy nhiên, Nam Việt Nam dự tính tiếp tục chống cự với phương tiện có trong tay, và, nếu được phép dưỡng thở, có thể tái tạo khả năng chiến đấu tùy thuộc vào sự yểm trợ chiến cụ về phía Hoa Kỳ cho phép. Tôi xác tín là chúng ta có bổn phận phải hiến sự hỗ trợ này cho họ." "Chúng ta đă tới Việt Nam, trước tiên là để hỗ trợ nhân dân Nam Việt Nam,-chứ không phải để đánh bại Bắc Việt. Chúng ta đă ch́a bàn tay ra cho nhân dân Nam Việt Nam, và họ đă nắm lấy bàn tay ấy. Giờ đây họ cần tới bàn tay đó hơn bao giờ hết. Bằng mọi giá chúng ta đă trợ giúp cho 20 triệu người. Họ đă nói với cả thế giới là họ lo sợ cho tính mạng của họ. Họ là những người ưa chuộng các giá trị trùng hợp với các giá trị của các hệ thống không cộng sản, họ tha thiết đeo đuổi cơ hội tiếp tục phát triển một lối sống khác lối sống của những người hiện sống dưới ách Bắc Việt." - Về phần viện trợ, Đại tướng Weyand ghi nhận: "Mức độ yểm trợ hiện tại của Hoa Kỳ bảo đảm cho sự thất bại của Chính Phủ Nam VN. Trong số 700 triệu mỹ kim cho tài khóa 1975, số c̣n lại 150 triệu mỹ kim có thể xử dụng trong một thời gian ngắn cho một cuộc tiếp tế qui mô; tuy nhiên, nếu muốn đạt được một cơ may thành công thật sự, cần có lập tức thêm 722 triệu mỹ kim để đưa Nam Việt Nam tới một thế pḥng thủ tối thiểu chống lại sự xâm chiếm được Nga và Tàu hỗ trợ. Sự viện trợ bổ túc này của Hoa Kỳ hợp với tinh thần và ư định của Hiệp Định Ba Lê. Hiệp Định này vẫn là phương thức thực tiễn làm việc cho một sự thỏa hiệp ôn ḥa tại Việt Nam." "Việc xử dụng hỏa lực không quân Hoa Kỳ để tăng cường khả năng Nam Việt Nam chống lại sự xâm chiếm của Bắc Việt sẽ đem lại sự hỗ trợ cả trên hai b́nh diện chiến cụ và tâm lư đối với Chính Phủ Nam VN và đồng thời sẽ đem lại một thế tŕ hoăn cần thiết trên chiến trường. Tuy nhiên tôi nh́n nhận những phiền phức khả quan về mặt pháp lư và chính trị nếu thi hành chọn lựa này." - Về kế hoạch di tản, Đại tướng Weyand đề nghị: "Xét về mặt biến chuyển nhanh chóng của các biến cố, Tổng Thống cần phải quan tâm tới một vấn đề khác. Dựa trên các lư do thận trọng, Hoa Kỳ phải có ngay bây giờ một kế hoạch di tản đại qui mô 6 ngàn kiều dân Mỹ và hàng vạn người Nam Việt Nam và Đệ Tam Quốc Gia mà chúng ta có bổn phận phải bảo vệ. Bài học tại Đà Nẵng cho thấy công việc di tản này đ̣i hỏi tối thiểu một chiến đoàn Hoa Kỳ của một sư đoàn tăng cường yểm trợ bởi không lực tác chiến để dập tan pháo binh và hỏa lực pḥng của Bắc Việt. Khi t́nh thế đ̣i hỏi, một lời xác định công khai về chính sách này phải được công bố và Bắc Việt phải được cảnh cáo một cách rơ ràng : về ư định của Hoa Kỳ sẽ dùng tới vũ lực để bảo toàn tính mạng của các người được di tản. Hành Pháp phải được Quốc Hội cho toàn quyền xử dụng các h́nh phạt quân sự chống lại Bắc Việt nếu họ cản trở công cuộc di tản." "Thế giới đánh giá sự trung tín của Hoa Kỳ trên tư cách một đồng minh tại Việt Nam. Để duy tŕ sự tin tưởng đó, chúng ta phải thực hiện một nỗ lực tối đa trong việc hỗ trợ cho Nam Việt Nam ngay bây giờ." - Về vai tṛ và các lựa chọn hành động của Hoa Kỳ, Đại tướng Weyand đề nghị và phân tích như sau: "Điều ǵ Hoa Kỳ làm, hay không làm, trong những ngày tới có lẽ là yếu tố định đoạt cho những biến cố xảy ra trong mấy tuần tới; điều này cũng đúng đối với điều ǵ Sàig̣n hay Hànội làm hay không làm. Một ḿnh Hoa Kỳ không thể cứu văn Nam Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ có thể, cho dù có vô t́nh đi nữa, xô đẩy Nam Việt Nam xuống hố chôn." "Đề nghị cụ thể của tôi có thể được phân thành hai loại. Có những hành động ngắn hạn--một phần về mặt thể lư nhưng chính yếu về mặt tâm lư--cần để nâng tinh thần Nam Việt Nam và, nếu có thể, ép buộc đ́nh trệ hành động. Điều này chỉ mua được thời giờ, nhưng trong t́nh thế hiện tại thời giờ là điều tối cần. Thứ đến, có những hành động dài hạn, tuy mang tính chất vật chất nhưng cũng có khía cạnh tâm lư mạnh mẽ, cần thiết nếu muốn Nam Việt Nam có tí hy vọng tồn tại trước sự tàn phá của Bắc Việt hay thương thảo một hiệp ước khác hơn là đầu hàng." "Điều kiện tiên quyết và cấp bách là Việt Nam cảm thấy Hoa Kỳ ủng hộ. Cảm quan này quan trọng về mọi mặt. Cảm quan Hoa Kỳ giảm thiểu ủng hộ Nam Việt Nam khuyến khích Bắc Việt tiếp tục tấn công. Chính cảm quan này đă khiến Việt Nam Cộng Ḥa bắt đầu triệt thoái khỏi các vị trí lẻ tẻ và lộ liễu tại các tỉnh phía bắc. Cảm quan này được cấu tạo bởi các hành động sau đây: Ngay sau khi kư kết Hiệp Định Ba Lê, 1.6 tỷ mỹ kim được đệ tŕnh để cung ứng cho nhu cầu của Nam Việt Nam cho tài khóa 1974; 1.126 tỷ mỹ kim được xuất ra--thanh thỏa 70% nhu cầu. Tiếp sau đó 500 triệu mỹ kim c̣n lại bị từ khước không được tháo khoán. Đối với tài khóa năm nay, 1.6 tỷ được đệ tŕnh để duy tŕ khả năng tự vệ của Nam Việt Nam; 700 triệu được chấp thuận--thanh thỏa 44 nhu cầu. Những hành động này đă giúp khai sinh khủng hoảng tin tưởng khiến Chính Phủ Nam VN dùng tới biện pháp triệt thoái chiến lược." "Điều then chốt cho sự tồn tại sống c̣n của quốc gia Việt Nam nằm trong khả năng của Chính Phủ NVN ổn định t́nh thế, và đem các nguồn lực quân sự chống đối lại sức tấn công của Bắc Việt. Khả năng ổn định t́nh thế này tùy thuộc, một phần lớn, vào khả năng thuyết phục hạ tầng giới quân nhân và dân sự là chưa đến nỗi mất tất cả, và c̣n có thể chận đứng Bắc Việt. Tuy đó là trách vụ chính của Chính Phủ Việt Nam, các hành động về phía Hoa Kỳ mang tính chất quyết liệt trong việc tái tạo niềm tin." "Hành động mà Hoa Kỳ có thể làm để gây nên ấn tượng tức khắc cho Việt Nam--Bắc lẫn Nam--là dùng không lực Hoa Kỳ để chận đứng thế tấn công hiện tại của Băc Quân. Cho dù chỉ giới hạn trên phần đất Nam Việt Nam và chỉ thực hiện trong một thời gian giới hạn, những tấn công này sẽ gây tổn thất lớn lao cho lực lượng viễn chinh Bắc Việt về mặt nhân sự và quân cụ, và sẽ tạo một chấn động về mặt tâm lư đối với các chiến binh xâm lăng. Những tấn công không tập này cũng sẽ khiến giới lănh đạo Hànội phải đắn đo suy nghĩ, thái độ mà hiện giờ họ không có, đến hậu quả tai hại có thể xảy đến nếu họ làm ngơ lời cam kết chính thức họ đă hứa với Hoa Kỳ." "Giới lănh đạo quân sự Nam Việt Nam thuộc mọi cấp bậc đều luôn lập đi lập lại tầm mức quan trọng của sử dụng B-52 phản công chống lại một lực lượng địch to lớn hơn và quan điểm này hợp lư về mặt quân sự. Tôi ư thức đến các khó khăn về mặt pháp lư và chính trị gây nên bởi việc thi hành biện pháp không tập này." "Một việc quan trọng mà Hoa Kỳ cần phải làm là xác định cách rơ ràng Hoa Kỳ quyết tâm ủng hộ Nam Việt Nam. Việc này phải bao gồm lời minh định tích cực của Tổng Thống và các giới chức cao cấp Mỹ. Tinh thần suy sụp của dân chúng Việt Nam đă hứng khởi lên rơ rệt khi phái đoàn Hoa Kỳ do Tổng Thống phái đi với nhiệm vụ điều tra t́nh h́nh đặt chân tới Sàig̣n. Có thêm những hành động tương tợ như vậy sẽ minh chứng mối quan tâm của Hoa Kỳ. Cộng thêm vào các lời xác định của Ngành Hành Pháp, cần thêm nỗ lực tạo một mối quan tâm chung tại mọi lănh vực trên đất Hoa Kỳ. Sự ủng hộ từ các thành viên của Quốc Hội; xác định lập trường ủng hộ từ các nhân vật có trọng trách trong và ngoài chính phủ; và sự thông cảm trong giới báo chí Hoa Kỳ sẽ cải biến cảm quan về phía Hoa Kỳ liên quan đến t́nh h́nh tại Việt Nam." Vương Hồng Anh |
NHỮNG V̀ SAO THỜI LỬA ĐẠN
NHỮNG V̀ SAO THỜI LỬA ĐẠN |
Cuối tháng 3 năm 1975 tuyến đầu thất thủ
2 Attachment(s)
T́nh h́nh chung
Sau tháng 1/1973 VC vẫn tiếp tục vi phạm Hiệp định Paris, cuộc chiến vẫn tiếp diễn nhưng VNCH c̣n đủ mạnh, khoảng cuối 1973 Hạ viện Mỹ bắt đầu cắt giảm viện trợ 50% mỗi năm 1974, 1975 khiến miền Nam ngày càng suy yếu, CS ngày càng mạnh hơn . Ông Nguyễn đức Phương dựa theo M.Maclear (Vietnam: The ten Thousand Day war) cho biết vào ngày mất Ban Mê Thuột 13/3/1975 Hạ viện Mỹ bác bỏ 300 triệu viện trợ bổ túc cho VNCH do TT Ford đệ tŕnh. Đại sứ Martin cũng thông báo cho TT Thiệu biết quân viện cho năm tới (1976) sẽ không được chuẩn chi (Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 732). Tin sét đánh đă khiến TT Thiệu mất tinh thần để rồi đi từ sai lầm này đến sai lầm khác. Nói trắng ra Hạ Viện Mỹ đă cạn tầu ráo máng buộc miền nam VN phải đầu hàng CS. Trong khi tại chính trường nước Mỹ vấn đề VN không được ai quan tâm tới, chỉ c̣n TT Ford và người phụ tá Kissinger cố gắng một cách tuyệt vọng để xin chút phương tiện cho VNCH. Vào lúc này đảng Dân Chủ nắm đại đa số Quốc hội Mỹ (67% Hạ viện và 60% Thượng viện), họ chống chiến tranh VN tích cực, đảng nọ phá đảng kia, bao giờ cũng vậy, ai cũng đều biết cả. Theo nhận xét của Kissinger (Years of Renewal trang 464) th́ TT Ford không t́m được giải pháp nào để thoát ra khỏi sự bế tắc, thảm kịch không thể nào tránh khỏi. (… there were no easy, heretofore undiscovered way out of this morass… The tragedy had become simply inevitable.) Gerald Ford chẳng khác nào một ông Tổng thống bù nh́n, lại nữa ông đă không do dân bầu, lên thay thế TT Nixon khi mà đảng Cộng Ḥa bị mất quá nhiều uy tín qua vụ tai tiếng Watergate. T́nh h́nh miền nam VN lúc này quá u ám, Hoa Kỳ đă bắt tay được Trung Cộng tháng 2/1972 và ḥa được với Sô Viết tháng 5/1972, thuyết Domino không c̣n ư nghĩa. Bây giờ là lúc họ quẳng cái miếng xương Đông Dương đi, được Cộng sản quốc tế khuyến khích, Hà Nội mừng rú vội chạy lại vồ ngay lấy. Năm 2006 trên internet tôi thấy có người hỏi cựu Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn: “Chúng ta đă biết trước là thua tại sao vẫn đánh để khiến bao nhiêu người chết thảm?” Một câu hỏi thật khó có câu trả lời… Tối 29/3/1975 đài phát thanh BBC Luân Đôn cho biết Đà Nẵng đă thất thủ, một trăm ngàn quân bị bắt làm tù binh, đó cũng là ngày sụp đổ của toàn bộ Quân khu I, hung tin ghê gớm ấy đă khiến cho cả nước kinh hoàng: Quân khu I nơi tập trung những lực lượng tinh nhuệ và thiện chiến nhất của VNCH, bốn Sư đoàn chính qui chủ lực, bốn Liên đoàn Biệt động quân đă hoàn toàn tan ră sau 9 ngày cầm cự và triệt thoái. Mặc dù nay nhiều bí mật về cuộc lui binh đă được tiết lộ, Bộ Tổng tham mưu VNCH, các vị Tướng lănh, các giới chức quân sự liên hệ đă bạch hóa diễn tiến của trận chiến bi thảm này, các nhà nghiên cứu quân sử, các nhân chứng, kư giả chiến trường… đă biên soạn, kể lại diễn tiến của mặt trận vùng Hoả tuyến nhưng người ta tưởng như nó vẫn c̣n nhiều điều bí ẩn và khó hiểu, chưa bao giờ trong cuộc chiến tranh Quốc -Cộng giai đoạn 1960-1975 một lực lượng to lớn của miền Nam lại có thể thua nhanh đến thế. Cũng có người cho rằng tấn thảm kịch này bắt nguồn từ ảnh hưởng của những yếu tố chính trị hơn là về quân sự. Các tài liệu, sách báo nói về cuộc lui binh Quân đoàn I của Bộ tổng tham mưu Đại Tướng Cao Văn Viên, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Thiếu Tướng Hoàng Lạc, nhà nghiên cứu quân sử Nguyễn Đức Phương, kư giả chiến trường Phạm Huấn và những lời thuật lại của các nhân chứng … nói chung không hoàn toàn giống nhau, có khi c̣n trái ngược nhau là khác. Quân khu I là một giải đất dài và hẹp h́nh cán chảo chạy theo hướng Tây Bắc, Đông Nam, gồm 5 tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng tín, Quảng Ngăi, dân số vào khoảng ba triệu người. So với các Quân khu khác Vùng Một nhỏ hẹp nhất, đây là nơi tiếp giáp với Bắc Việt, chiến tranh có thể bùng nổ bất cứ lúc nào nên cũng gọi là vùng Hoả tuyến. Từ sau khi kư hiệp định Paris, nửa triệu quân đồng minh đă rút đi, VNCH một ḿnh phải gánh vác toàn bộ chiến trường. Lănh thổ quá rộng, không đủ lực lượng trấn giữ nên tại đây VNCH chỉ c̣n kiểm soát được phần đất nằm phía bên phải của giải đất theo chiều dọc tức là phía Đông, c̣n phía Tây do Cộng thuộc quyền kiểm soát của CSBV. Dần dần VNCH chỉ c̣n những tỉnh lỵ và thị xă và các quận do sự lấn chiếm theo lối tầm ăn dâu của địch, kể từ sau ngày 19/3/1975, nếu nh́n trên bản đồ quân sự (Cao Văn Viên, Những Ngày Cuối VNCH trang 166) ta sẽ thấy miền Nam chỉ c̣n kiểm soát được vào khoảng gần một phần ba (1/3) diện tích Quân khu 1. Năm 1972 Quân khu I đă là một chiến trường lớn, nơi diễn ra những trận đánh ác liệt đẫm máu giữa các đại đơn vị của hai miền Nam Bắc .V́ t́nh h́nh sôi động đặc biệt của vùng hỏa tuyến ngoài ba Sư đoàn cơ hữu 1, 2, 3 của Quân đoàn, TT Thiệu c̣n cho hai Sư đoàn tổng trừ bị Nhẩy Dù và Thủy quân lục chiến ra đóng tăng cường. Đạn dược tiếp liệu ngày càng thiếu thốn bi đát, theo ông Cao Văn Viên (sách đă dẫn trang 92) từ tháng 7/1974 hoả lực miền Nam giảm hơn 70% và vào tháng 2/1975, đạn tồn kho các loại súng tại kho Trung ương chỉ c̣n đủ cung ứng khoảng một tháng (30 ngày). Miền Nam không được Mỹ yểm trợ B52; tiếp liệu, đạn dược đă gần kiệt quệ, tài khóa 1974, 1975 bị cắt giảm 50% mỗi năm (Kissinger, Years of Renewal trang 472). Ngay từ cuối tháng 12/1974 khi BV xử dụng ba sư đoàn tấn công Phước Long, pháo binh VNCH tại đây đă phải đếm từng viên đạn để tiết kiệm hầu c̣n đủ chiến đấu (Kissinger, Years of Renewal, trang 490) Trong khi ấy CS quốc tế vẫn tiếp tục viện trợ dồi dào cho BV. Theo BBCVietnamese.com ngày 10-5-2006, viện trợ quân sự CS quốc tế cho BV giai đoạn 1969-1972 là 684,666 tấn vũ khí, giai đoạn 1973-1975 là 649,246 tấn vũ khí coi như không thay đổi. Từ tháng 12/1974 Nga Sô đă viện trợ quân sự cho Hà Nội tăng gấp bốn lần hơn trước (Kissinger, Years of Renewal trang 481). Nh́n sơ các con số và các dữ kiện trên chúng ta cũng đủ biết ai sẽ thắng , ai thua, về điểm này Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn có nói “Xin nhắc lại một lần nữa, nguyên nhân sâu xa của sự sụp đổ của Miền Nam là không có viện trợ (phương tiện chiến tranh) (Những Sự Thật Chiến Tranh Việt Nam 1954-1975, trang 406) Cuối năm 1974 t́nh h́nh chiến sự ở Quân khu I yên lặng được một thời gian, VNCH đẩy lui cuộc tấn công của BV vào đồng bằng Tây Nam Đà Nẵng, CSBV có lợi thế về địa h́nh, v́ gần hậu cần miền Bắc, họ được bổ sung quân số và tiếp liệu thuận lợi. Từ tháng 6 cho tới cuối năm 1974 các lực lượng Quân đoàn I của VNCH bị tổn thất trong các trận giao tranh không được bổ sung nên quân số thiếu hụt. Quân khu 1 được chia làm hai khu Bắc và Nam, Bắc gồm hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên dưới quyền Bộ Tư lệnh tiền phương do Trung tướng Lâm Quang Thi chỉ huy, ba tỉnh c̣n lại Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngăi do Tư lệnh Quân đoàn Trung Tướng Ngô Quang Trưởng trực tiếp chỉ huy. Bố trí chủ lực quân VNCH như sau: -Sư đoàn Nhẩy Dù vàTQLC, Lữ đoàn 1 Thiết kỵ từ Bắc Thừa Thiên lên tới Nam sông Thạch Hăn kéo dài sang phía Tây Quảng Trị. Lực lượng cơ hữu của Quân khu và các Liên đoàn Biệt động quân bảo vệ các tỉnh c̣n lại: – Sư đoàn 1BB và Liên đoàn 15 Biệt động quân đóng tại Thừa Thiên. – Sư đoàn 3 BB và Liên đoàn 14 BĐQ đóng tại Đà Nẵng, Quảng Nam. – Sư đoàn 2 BB và hai liên đoàn 11, 12 BĐQ bảo vệ Quảng Tín, Quảng Ngăi. (Theo Nguyễn đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 751) Các đơn vị yểm trợ gồm trên 10 tiểu đoàn pháo binh, một tiểu đoàn pḥng không, một lữ đoàn thiết kỵ. Hải quân gồm các giang đoàn xung phong, trục lôi, tuần thám tại Thuận An, các duyên đoàn tại Cửa Việt, tại Thuận An, Tư Hiền… Sư đoàn 1 Không quân đóng tại Đà Nẵng. Quân số của Quân đoàn vào khoảng 90,000 chủ lực và 75,000 địa phương quân, nghĩa quân, số gồm cả thành phần không tác chiến. Đây chỉ là con số lư thuyết, trên thực tế th́ thấp hơn không được như vậy v́ nhiều lư do. Lực lượng Cộng sản tại Quân khu I chia hai địa bàn hoạt động lấy đèo Hải Vân làm ranh giới do các Tướng Lê Tư Đồng, Nguyễn Hữu An, Chu Huy Mân chỉ huy. Theo tác giả Nguyễn Đức Phương tại đây Bắc việt có 7 sư đoàn (324B, 325, 320B, 312, 304, 711, 2) và 3 Trung đoàn độc lập tổng cộng vào khoảng 8 sư đoàn (Sách đă dẫn trang 752). Theo ông Cao Văn Viên, tại đây BV có 5 sư đoàn (341, 325C, 324B, 304, 711), 10 trung đoàn độc lập (52, 4, 5, 6, 27, 31, 48, 51, 270, 271), 3 Trung đoàn đặc công (5, 45, 126), toàn bộ vào khoảng hơn 8 Sư đoàn. Lực lượng cơ giới yểm trợ gồm 3 Trung đoàn xe tăng, 12 Trung đoàn pḥng không, 8 Trung đoàn pháo binh (Những Ngày Cuối Của VNCH trang 160). Theo Nguyễn Đức Phương lực lượng địch tổng cộng vào khoảng 71,000 người. Bắc Việt có ưu thế về vũ khí đạn dược hơn VNCH rất nhiều, chủ lực quân coi như gấp hai. Diễn tiến của mặt trận Trong khi mở chiến dịch Ban Mê Thuột, CSBV tại Quân khu I cũng xâm nhập đánh phá các nơi để cầm chân quân đội VNCH như tại Quảng Trị, họ chiếm quận Hải Lăng Bắc Thừa Thiên, xâm nhập các xă ven biển Thừa Thiên. Phía Nam đánh các cao điểm của Sư đoàn I, tấn công tuyến sông Bồ nhưng bị đẩy lui bỏ lại 200 xác chết, tại Quảng Tín địch chiếm 2 quận Tiên phước, Hậu Đức ngày 10/3 bắn phá tỉnh lỵ Tam Kỳ… Ngày 11/3, sau khi CS tấn công chiếm Ban mê Thuột một ngày, Tổng thống Thiệu triệu tập phiên họp tại Dinh Độc Lập, có mặt Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Đại Tướng Cao Văn Viên, Trung Tướng Đặng Văn Quang. TT Thiệu cho biết trước t́nh h́nh khó khăn do quân viện bị cắt giảm, áp lực địch mạnh, ta chỉ có thể giữ được Quân khu III, Quân Khu IV và một vài tỉnh duyên hải QK I và QK II, QK I chỉ giữ Huế và Đà Nẵng (Những Ngày Cuối Của VNCH trang 129, 130, 131) Trong lúc t́nh h́nh quân sự có vẻ không thuận lợi cho ta th́ theo yêu cầu của TT Thiệu, Bộ TTM lệnh cho Tướng Trưởng trả Sư đoàn Nhẩy Dù về Trung ương. Ngày 13/3 TT Thiệu lệnh cho Tướng Trưởng về Sài G̣n họp Hội Đồng an ninh Quốc gia, thành phần gồm Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Đại Tướng Cao Văn Viên, Trung Tướng Đặng Văn Quang, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn. Ông Thiệu cho biết t́nh h́nh khó khăn do cắt giảm quân viện, ông không tin Mỹ sẽ can thiệp dù Cộng Sản tấn công miền Nam nên phải tái phối trí lực lượng, rút quân bỏ những miền cao nguyên rừng núi để giữ những vùng mầu mỡ c̣n hơn đứng chung chính phủ Liên Hiệp với Cộng Sản. Ngày 14/3 Tướng Trưởng về Quân đoàn I họp tham mưu, thảo luận kế hoạch tái phối trí, Nhẩy Dù sẽ rút về Sài G̣n, hôm sau Liên đoàn 14 BĐQ nhận vùng trách nhiệm của Lữ đoàn TQLC 369 tại Quảng Trị để Lữ đoàn này về Phú Lộc thay Lữ đoàn Dù, một lữ đoàn TQLC sẽ chịu trách nhiệm khu vực sông Bồ để bảo vệ Huế. Ngày 17/3 Lữ đoàn 258 TQLC sẽ rời Quảng Trị để về Đà Nẵng thay lữ đoàn 2 Dù. Dân chúng sợ hăi đă di tản ồ ạt trên quốc lộ Một từ mấy ngày nay làm cản trở việc điều quân tái phối trí. Ngày 18/3 Thủ tướng Trần Thiện Khiêm ra Đà Nẵng để giải quyết vấn đề dân tỵ nạn, ông cho Tướng Trưởng biết sẽ không tăng viện Quân khu I v́ t́nh h́nh Quân khu III nghiêm trọng, Việt Cộng đánh Dầu Tiếng, áp lực Tây Ninh, Long Khánh, B́nh Tuy… Ngày 19/3 Tướng Trưởng được triệu về Sài G̣n họp lần thứ hai, thành phần phiên họp cũng như lần trước nhưng có thêm Phó tổng thống Trần Văn Hương. Tướng Trưởng tŕnh bầy hai kế hoạch lui binh: Kế hoạch Một: các đơn vị sẽ theo Quốc lộ Một từ Huế, Chu lai về Đà Nẵng, trong trường hợp Quốc lộ Một bị cắt th́ sẽ theo kế hoạch Hai. Kế hoạch Hai: Các lực lượng Quân đoàn sẽ tập trung tại ba cứ điểm Huế, Đà Nẵng và Chu Lai, tầu Hải quân sẽ chuyên chở lính từ Huế, Chu Lai về Đà Nẵng. Trong cả hai kế hoạch Đà Nẵng là điểm pḥng thủ chánh, điểm tựa cuối cùng, Tướng Trưởng đề nghị giữ cả ba cứ điểm để phân tán lực lượng địch và gây tổn thất tối đa cho Việt Cộng, ông Thiệu cho biết giữ được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Ông Cao Văn Viên cho rằng kế hoạch của Tướng Trưởng là hợp lư. “Kế hoạch lui quân của Quân đoàn 1 soạn thảo rất hợp lư và đầy đủ, gồm kế hoạch dự pḥng để đối phó với những bất ngờ do địch gây ra. Khi trận chiến khai diễn như Kế Hoạch Hai dự trù và các đơn vị của Quân đoàn 1 rút hết về Đà Nẵng, chúng ta chỉ c̣n hai hành động phải làm: Cố thủ tại chỗ hoặc rút bằng đường biển nếu t́nh thế bắt buộc. Như vậy vào thời điểm trên, đâu c̣n cần đến kế hoạch dự pḥng nào khác” (Những Ngày Cuối Của VNCH Trang 163) Thật ra kế hoạch nghe th́ hay nhưng thực hiện được lại không phải dễ, thực tế rất phũ phàng, BV tấn công gấp rút, dân chúng di tản làm náo loạn khiến binh sĩ mất tinh thần. TT Thiệu lệnh cho Tướng Trưởng cố gắng giữ được tất cả những phần đất có trong tay sau đó ông bảo Tướng Quang soạn bài hiệu triệu trên đài phát thanh Huế để trấn an dân chúng, quyết bảo vệ Huế đến cùng. Buổi họp này không thấy nói đến triệt thoái mà chỉ là kế hoạch co cụm để giữ đất. Ngày 19/3 Quảng Trị bỏ ngỏ, chi đoàn Thiết giáp, liên đoàn 14 BĐQ rút về bên này Mỹ chánh lập pḥng tuyến mới. Cộng quân bắt đầu tấn công mạnh vào Quân khu. Theo Tướng Hoàng Lạc, Giám mục Phạm Ngọc Chi địa phận Đà Nẵng và Giám mục Nguyễn Kim Điền khuyên không nên đổ máu vô ích v́ các siêu cường đă sắp đặt cả rồi. Sáng 20/3 Tướng Trưởng bay ra bộ chỉ huy tiền phương họp các cấp chỉ huy bàn kế hoạch pḥng thủ Huế như Tổng thống ra lệnh phải giữ bằng mọi giá. T́nh h́nh mặt trận tương đối c̣n tốt đẹp, các đơn vị hoàn hảo, tinh thần cao duy tŕ được kỷ luật, ai nấy đồng ḷng tử thủ, dân chúng di tản nhiều. Tướng Trưởng lạc quan khi thấy Huế pḥng thủ tốt. Trưa hôm đó ông Thiệu đọc hiệu triệu dân trên đài phát thanh Huế. Đến chiều khi về tới Đà Nẵng TướngTrưởng nhận được lệnh của dinh Độc Lập chỉ giữ Đà Nẵng thôi nếu t́nh h́nh bó buộc, ông Thiệu lư luận Quân đoàn I không đủ lính để bảo vệ cả ba cứ điểm Chu lai, Huế và Đà Nẵng. Tướng Trưởng được quyền tùy cơ ứng biến. Quân khu I ngày một nguy ngập, Cộng quân đă bắt đấu tấn công mạnh theo thế gọng ḱm từ trên Quảng Trị đánh xuống và từ dưới Quảng Ngăi đánh lên, dân chúng chạy loạn ồ ạt từ Huế kéo về Đà Nẵng, từ Quảng Nam Quảng Ngăi kéo lên. Ngày 21/3 địch tấn công Phú Lộc, áp lực mạnh trên Quốc lộ Một, dân tản cư đông như kiến từ Huế về Đà nẵng. Sư đoàn I VNCH có pháo binh và không quân yểm trợ đẩy lui cuộc tấn công của BV nhưng họ có ưu thế về lực lượng nên Sư đoàn 1 cầm cự đến trưa ngày 22 th́ thất thủ, Trung đoàn 1 BB (SĐ1) và Liên đoàn 15 Biệt động quân bị đẩy lui, một khúc đường Quốc lộ Một bị cô lập, Trung đoàn I bị thiệt hại nặng, Tướng Trưởng ra lệnh thu gọn tuyến pḥng thủ Huế. Dân chúng và quân cụ bắt đầu được chở bằng tầu ra khỏi Đà Nẵng, ngày 23/3 Việt Cộng pháo kích Huế rời rạc không gây thiệt hại ǵ nhiều nhưng khiến dân chúng hốt hoảng náo động như hỗn loạn. Tại phía Nam Vùng Một t́nh h́nh nguy ngập khi quận Hậu Đức, Tiên Phước thuộc Quảng Tín bị Việt cộng chiếm, Sư đoàn 2 và Liên đoàn 12 BĐQ chặn được áp lực địch tấn công về Tam Kỳ và các vùng duyên hải. Trước áp lực dồn dập của Cộng quân Tướng Trưởng ra lệnh di tản 2 quận Sơn Trà, Trà Bồng Quảng Ngăi, những tiền đồn xa tiếp tế cũng được di tản, Tướng Trưởng cho gom các lực lượng rời rạc lại để bảo vệ những điểm trọng yếu vào trận cuối cùng. Sự chỉnh đốn của Tướng Trưởng đem lại chút b́nh yên gượng gạo cho 2 tỉnh Quảng Ngăi và Quảng Tín trong 2 ngày. Sáng ngày 24/3 tại phía Nam Quân khu 1, BV tấn công mạnh tại Quảng Tín, Sư đoàn 711, Trung đoàn 52 BV và xe tăng đánh Tam Kỳ, đặc công đột nhập tỉnh lỵ thả tù gây rối loạn đến trưa th́ Tam Kỳ thất thủ. Trung đoàn 2 thuộc Sư đoàn 3 VNCH từ Quảng Nam được lệnh tiến về Quảng Tín để giúp Địa phương quân chạy từ Tam Kỳ về. Tam kỳ mất, dân ùn ùn chạy về Đà Nẵng. Tại Quảng Ngăi Cộng quân tấn công dữ dội, đặc công và địa phương quân Việt Cộng tại Quảng Ngăi tấn công phi trường, các cơ sở hành chánh quân sự Quảng Ngăi. Đường Quốc lộ Một từ Quảng Ngăi tới Chu lai bị cắt đứt, đường ra biển bị cô lập, chỉ trong một ngày t́nh h́nh Quân khu 1 rối loạn đến mức không c̣n kiểm soát được nữa. Quân đoàn chấp thuận cho tiểu khu Quảng Ngăi mở đường máu về Chu Lai nhưng chỉ có vài đơn vị về được. Ngày 25/3 tất cả các đơn vị Quân đoàn I tụ lại 3 pḥng tuyến chính: Chu Lai phía nam, Đà Nẵng ở giữa và Huế phía Bắc, các lực lượng của Quân đoàn I bị thiệt hại nhiều khi di tản về các pḥng tuyến này, tinh thần binh sĩ xuống thấp, ai nấy chán nản chưa bao giờ trong đời chinh chiến họ thấy tuyệt vọng như hiện nay. Trong t́nh thế khó khăn Tướng Trưởng lại nhận thêm một lệnh nữa từ dinh Độc Lập, TT Thiệu lệnh cho Tướng Trưởng dùng ba Sư đoàn cơ hữu của Quân đoàn: SĐ1, SĐ2, SĐ3 để pḥng thủ Đà Nẵng, Sư đoàn TQLC đóng vai trừ bị. Đêm đó Tướng Trưởng cho Sư đoàn I và các đơn vị quanh Huế rút về Đà Nẵng, ông lệnh cho Sư đoàn 2, Chi khu Quảng Ngăi và thân nhân của họ rút ra Cù Lao Ré, một đảo ngoài khơi Chu lai. Hai tầu dương vận hạm đón Sư đoàn 2 tại Chu lai đưa về Cù Lao Ré, cuộc vận chuyển thành công hơn mặc dù có hỗn loạn nhưng một nửa quân số của Sư đoàn 2 đă lên tầu đưa về B́nh Tuy, chính phủ tuyên bố Huế và Chu lai thất thủ ngày 25/3. Các lực lượng Huế bắt đầu di tản, Sư đoàn I và các đơn vị cơ hữu rút ra cửa Tư Hiền. Hải quân và công binh sẽ bắc cầu để quân di tản đi ngược vào đất liền rồi dùng đường bộ về Đà Nẵng. Sư đoàn TQLC và các đơn vị trực thuộc sẽ triệt thoái bằng tầu Hải quân. Sáng ngày 26/3 biển sóng to làm đ́nh trệ cuộc vận chuyển, cầu nối giữa Tư Hiền và đường bộ chưa hoàn tất. Đến trưa thủy triều dâng cao không thể vượt biển được trong khi ấy Cộng quân đuổi theo nă pháo vào cửa Tư Hiền và các địa điểm tập trung gây nhiều thiệt hại, hỗn loạn diễn ra không c̣n quân kỷ, Sư đoàn I tan ră tại đây chỉ có một phần ba về được đến Đà nẵng, tới nơi họ ră ngũ đi t́m thân nhân. Trong khi đó th́ Lữ đoàn kỵ binh với hơn 100 thiết giáp các loại từ mặt trận Bắc Huế tiến về cửa Thuận An, theo sau là các đơn vị pháo binh với hằng trăm khẩu pháo, TQLC, BĐQ, ĐPQ từ tuyến sông Bồ đang lũ lượt kéo về, hỗn loạn lại diễn ra. Hai tầu dương vận hạm đến cửa Thuận An để chở TQLC, tầu hải vận đĩnh và quân vận đĩnh chở người từ bờ ra dương vận hạm. Sư đoàn 325 CS chuyển vào Quảng Nam phối hợp với sư đoàn 304 CS tấn công Đà Nẵng, Sư đoàn 2 CS cũng tiến về thành phố. Quân đội VNCH lập pḥng tuyến pḥng thủ bảo vệ Đà Nẵng, phía Tây 2 lữ đoàn TQLC, phía Nam Sư đoàn 3 và ĐPQ Quảng Nam. Ngày 27/3/1975 các cuộc pḥng thủ Đà Nẵng thành ra vô hiệu trước sự hỗn loạn, Cộng quân dồn nỗ lực bao vây thành phố. Từ bắc Đà Nẵng hai Sư đoàn 324B và 325C CSBV cùng với Trung đoàn xe tăng và hai Trung đoàn pháo tiến dọc theo thung lũng Voi bao vây thành phố. Phía Nam Sư đoàn 711, 304 BV tiến chiếm Đại Lộc và Dục Đức, Đà Nẵng đă nằm trong tầm pháo của quân thù. Tại thành phố lớn thứ hai của miền nam này Quân đoàn I chỉ c̣n có Sư đoàn 3 và 2 lữ đoàn TQLC, các Sư đoàn 1 và 2 đă bị ră ngũ trên đường triệt thoái, một phần đă được tầu chở ra khơi, lực lượng không đủ để đương đầu với áp lực quá đông của BV, lại nữa thành phồ với hằng triệu người tỵ nạn đă trở nên hỗn loạn không thể nào kiểm soát được. Sáng ngày 28/3/1975 Tướng Trưởng họp khẩn cấp các đơn vị trưởng ban hành một số biện pháp văn hồi trật tự và tái trang bị các đơn vị di tản trong thành phố nhưng ta không c̣n đủ quân tác chiến để thực hiện kế hoạch này. Các quân nhân có mặt được sung vào các đơn vị tác chiến nhưng không đủ để bù vào thiệt hại do cuộc triệt thoái gây ra. Trưa 28/3 Pḥng 2 thuộc Bộ TTM cho Quân đoàn I biết Cộng quân có thể tấn công trong đêm, Sư đoàn I Không quân được lệnh di tản về Phù Cát, Phan Rang, Quân đoàn I ban lệnh ứng chiến tại các tuyến pḥng thủ. Hai giờ trưa các xă ấp quanh Đà Nẵng đă lọt vào tay Cộng quân. Địa phương quân, nghĩa quân tan ră, binh sĩ ră ngũ rời đơn vị. CSBV pháo phi trường, căn cứ Hải quân khi trời vừa tối rất dữ dội và chính xác nhờ những toán đặc công, tiền pháo viên chỉ điểm hướng dẫn. Tướng Trưởng vội báo cáo về Bộ Tổng tham mưu và gọi cho Tổng thống Thiệu xin di tản bằng đường biển. Tướng Thiệu không ra lệnh rơ ràng chỉ hỏi vu vơ nếu di tản th́ có thể được bao nhiêu. Pháo kích của BV khiến cho liên lạc giữa Sài G̣n và Đà Nẵng bị cắt đứt, Tướng Trưởng lập tức ra lệnh bỏ Đà Nẵng, ông họp với Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại Tư lệnh Hải quân vùng I và các cấp chỉ huy để hẹn địa điểm rút quân tại chân đèo Hải Vân , núi Non Nước và cửa khẩu Hội An. Rạng sáng ngày 29/3/1975 sương mù bao phủ dọc theo bờ biển, ngoài khơi tầu đă có mặt ở điểm hẹn, thủy triều thấp tầu không vào bờ được, binh sĩ phải lội ra biển. Cuộc di tản êm xuôi cho đến khi khi BV phát hiện bèn pháo kích vào địa điểm tập trung quân và tầu ngoài khơi gây nhiều thiệt hại, đoàn tầu di tản được khoảng 6,000 TQLC, 3,000 lính Sư đoàn 3 và nhiều đơn vị khác. Đà Nẵng được coi như thất thủ ngày 29/3/1975. Có tài liệu cho biết VNCH mất 130 máy bay tại Đà Nẵng. Năm 1976 Tướng Trưởng trả lời một cuộc phỏng vấn cho biết khoảng 6,000 TQLC, non nửa lực lượng của Sư đoàn và 4,000 quân thuộc các binh chủng khác đă được tầu bè cứu thoát. Tướng Nguyễn Duy Hinh Tư lệnh Sư đoàn 3 cho biết trong số 12,000 người của Sư đoàn 3 chỉ có 5,000 đến được điểm tập trung và sau cùng chỉ có 1,000 người lên được tầu. Tổng cộng có 70,000 người dân được cứu thoát và 16 ngàn lính, 4 Sư đoàn kể cả TQLC bị thiệt hại nặng nề không thể gọi là đơn vị chiến đấu được nữa. Tất cả quân trang quân dụng, vũ khí, xe tăng đại bác… của Quân khu I coi như mất hết. Quân khu I thất thủ một cách dễ dàng trong khoảng 10 ngày, không có lực lượng nào được tổ chức để đánh chận hậu, đánh tŕ hoăn khi Quân đoàn di tản. Cuộc lui binh thất bại hoàn toàn được coi tồi tệ hơn so với Quân đoàn II, hỗn loạn gấp bội phần, sự thiệt hại về nhân mạng cao hơn cuộc triệt thoái tại Tây nguyên nhiều. Trọng Đạt |
THÁNG BA CHÔN SÚNG
1 Attachment(s)
Cứ mỗi tháng Ba về, ḷng tôi lại chùng xuống, phải nói là buồn đau, cay đắng, ngậm ngùi đến tận cùng tim gan mỗi khi nh́n thấy những h́nh ảnh đau thương đập vào mắt tại băi biển Thuận An vào những ngày 25, 26, 27 hay tại bờ biển Đà Nẵng ngày 28, 29 tháng 3/1975. Đă 39 năm trôi qua, đă có quá nhiều bài viết về những ngày cuối tháng 3/1975 tại băi biển Thuận An. Tôi không muốn lập lại nhưng với cương vị là Trung Úy, ĐĐP/ĐĐ2, TĐ7, LĐ147/TQLC, là lữ đoàn bị kẹt lại trên băi biển Thuận An, tôi xin ghi lại những ǵ mắt thấy, tai nghe cùng suy nghĩ của ḿnh về những ngày chiến đấu tới tận cùng sức sống của TĐ7/TQLC mà Tiểu Đoàn Trưởng là Thiếu Tá Phạm Cang, Tiểu Đoàn Phó là Thiếu Tá Lê Quang Liễn, cả 2 vị đều xuất thân từ Khóa 20 Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam. Viết để thấy rơ hơn là trong trận đánh cuối cùng đó của TĐ7/TQLC, chúng tôi đă chiến đấu với ai, với 1 đại đội du kích Việt Cộng hay là chiến đấu với cấp tiểu đoàn, trung đoàn chính quy Bắc Việt với hỏa tiễn tầm nhiệt AT3 cùng với chiến xa T54 yểm trợ… Khoảng 5 giờ chiều ngày 19/3/1975, trời nhá nhem tối, tôi là đại đội phó ĐĐ2/TĐ7 TQLC, bàn giao vị trí pḥng thủ cho 1 trung úy đại đội trưởng đại đội Biệt Động Quân. Đi theo tuyến pḥng thủ dưới cơn mưa phùn gió bấc của tháng 2 âm lịch tại miền núi rừng miền Trung, lạnh cắt da, miệng đánh ḅ cạp. Tôi hỏi ông về khả năng tham chiến th́ được biết quân số của đại đội ông là khoảng 80, mới đụng nặng trở về nên quân số chưa bổ sung kịp. Như vậy là gay cấn rồi đây, quân số của ông vừa đủ trám tuyến cho 2 trung đội TQLC chúng tôi. Tôi hướng dẫn cho ông hệ thống pḥng thủ, giao thông hào h́nh chữ Z, hầm hố cá nhân, những vị trí đặt súng nặng đại liên M60, những hầm hàm ếch dưới giao thông hào sâu gần 2 mét để tránh pháo 130 ly và hỏa tiễn 122 ly. Tuyến pḥng thủ là một đồi đá nhiều hơn đất, muốn lấy nước là phải theo những con đường đặc biệt từ trên đồi xuống thông thủy. Bàn giao cả những vị trí gài bẫy, gài ḿn claymore, lựu đạn và có cả những vọng gác giả, lính giả để nghi binh… Ban ngày thấy vậy nhưng không phải vậy, ban đêm mà ṃ vào là biết thế nào là TQLC pḥng thủ, biết thế nào là Sinh Bắc Tử Nam ngay… Bàn giao cho ông những hỏa tập tiên liệu trên bản đồ. Coi chừng bị bắn sẻ. Riêng 2 cái máy sensor để ḍ tiếng động th́ chúng tôi phải đem theo. Khoảng 8 giờ tối th́ chúng tôi mới bàn giao xong. Tôi chúc ông may mắn ở lại, c̣n chúng tôi từ giă Quảng Trị Anh Hùng… TĐ7/TQLC được lệnh rút về lập Tuyến Đỏ tại đèo Hải Vân. Mỗi sĩ quan nhận 10 tấm bản đồ trải dài từ Quảng Trị đến Đà Nẵng. Từ khi t́nh nguyện về TQLC, đây là lần đầu tiên tôi nhận một số bản đồ nhiều kỷ lục cho một cuộc hành quân. Chúng tôi thống nhất đánh số xấp bản đồ từ 1 đến 10 và mỗi bản đồ đều có những soát điểm, di chuyển đến đâu là phải báo cáo cho BCH/TĐ biết để kịp thời yểm trợ. Kèm theo đó c̣n có những hỏa tập tiên liệu… tất cả đều được mă hóa, VC có bắt được tần số của chúng tôi th́ cũng mù v́ chỉ có sĩ quan mới có tập giải mă này. Nói đến đây không thể không nhắc đến Thiếu Tá Lê Quang Liễn, TĐP/TĐ7, ông là người soạn ra tập mă hóa này, tất cả đều bằng số, và các sĩ quan cũng như hiệu thính viên đều phải cố gắng nhớ càng nhiều càng tốt… Ngày 20/3/1975, đơn vị tôi rút về đóng quân tại cây số 17, nhiệm vụ là bảo vệ cầu An Lỗ để bảo đảm an ninh lộ tŕnh cho Lữ Đoàn 369 của Tr/Tá Nguyễn Xuân Phúc đi chuyển qua rồi mới tới TĐ7 sẽ rút sau cùng theo chiến thuật cuốn chiếu. Tôi c̣n nhớ rơ là sáng hôm đó tôi đă đứng nghiêm chào khi Thiếu Tá Lâm Tài Thạnh, TĐT/TĐ9 đi ngang qua cầu. Ngồi trên xe ông chào lại và mỉm cười. Ông và tôi quá quen thuộc v́ trước đó không lâu ông là TĐP/TĐ7 và tôi là ĐĐP/ĐĐ2/TĐ7, cùng chung cánh B do ông chỉ huy. Ngày 21/3/1975, thật là bất ngờ khi được Thiếu Tá Phạm Cang cho tôi 6 giờ phép về thăm gia đ́nh. Bất ngờ là v́ suốt hơn 2 năm hành quân ở Quảng Trị, qua 2 đời TĐT, Th/Tá Nguyễn Kim K16 VB rồi Th/Tá Phạm Cang K20 VB, qua 2 cái Tết, tôi chưa bao giờ được cấp 1 giờ phép, mặc dù gia đ́nh tôi ở Huế, chỉ cách nơi tôi hành quân khoảng 50 cây số… Cầm tờ giấy phép trong tay, tôi đu theo chiếc GMC tiếp tế trên đường trở về hậu trạm ở Mang Cá và về đến nhà khoảng 11 giờ sáng. Đến 12 giờ trưa th́ ba tôi đi làm về, tôi cùng gia đ́nh ăn một bữa cơm sau hơn 2 năm xa cách từ ngày ra trường (15/12/1972). Ba tôi làm việc tại Viện Đại Học Huế, ông cho tôi biết là tất cả nhân viên đă sẵn sàng di tản vào Đà Nẳng khi có lệnh. Khoảng 1 giờ trưa, từ giă gia đ́nh, tôi đi xe Honda qua Bưu Điện Huế để gọi điện thoại về cho “em gái hậu phương” ở Sài G̣n. Tôi chỉ cho biết là tôi sẽ đi thăm chú K. (chú K. là chú của tôi đang dạy học tại Đà Nẵng). Nói chuyện được 5 phút, phải ngưng, nhường cho người khác v́ người chờ để gọi quá đông. Có một ông nhận là kư giả hỏi tôi là có gởi hay nhắn ǵ về Sai G̣n không, ngày mai ông sẽ về SG. Tôi cám ơn ổng v́ chẳng có ǵ để gởi. Lại leo lên xe Honda ra bến xe để trở lại nơi hành quân. Hơn 2 năm trời được 6 giờ phép về thăm cha mẹ ngay trong vùng hành quân! Những ai không ở trong hoàn cảnh lính chiến trên địa đầu giới tuyến th́ tưởng đó là chuyện đùa, chính tôi cũng tưởng đùa, nhưng mà là thật. Không phải cấp chỉ huy làm khó thuộc cấp, chúng tôi, từ trên xuống dưới đều thế cả, v́ nhiệm vụ mà phải hy sinh, v́ tụi VC xâm lăng muốn “làm khó, làm khổ” đồng bào. Ba giờ chiều, ra đến vị trí đóng quân, th́ một ngạc nhiên khác lại đến với tôi, đó là đơn vị của tôi đă không c̣n ở chỗ cũ như hồi sáng nữa mà đă hành quân trở ra lại Quảng Trị rồi!. Ngày 22/3/1975, một ngày khá yên tĩnh, khoảng 8 giờ sáng, toán tiền đồn báo về là từ hướng Quảng Trị có một số quân và dân đang di chuyển về tuyến chúng tôi. Tôi được lệnh là chận tất cả lại. Hỏi chuyện một Trung Úy Địa Phương Quân th́ được biết là quân chính quy Bắc Việt rất đông cùng với nhiều chiến xa đă chiếm Quảng Trị, nơi mà mấy ngày trước, TQLC vừa bàn giao tuyến lại cho BĐQ và ĐPQ. Đến chiều th́ địch xuất hiện, ngang nhiên như chỗ không người, họ đâu có ngờ là TQLC vẫn c̣n đây, và được chúng tôi tiếp đón rất nồng hậu bằng hỏa lực cơ hữu cùng với 1 M41 tăng phái. Địch rút. Ngày 23/03/1975, một ngày khá căng thẳng, 2 bên gờm nhau, địch biết ta, ta biết địch nhưng 2 bên đều án binh bất động. Hai bên đều đánh hơi được là thế nào cũng sẽ có 1 cuộc thư hùng xa xảy ra nhưng chưa biết sẽ xảy ra khi nào thôi. Gọi pháo binh không được, không biết tại sao. Từ khi tôi làm ĐĐP, luôn luôn có 1 Thiếu Úy “đề lô” thuộc pháo binh cơ hữu của TQLC đi với tôi nhưng mấy ngày gần đây không c̣n thấy nữa. Đă 3 tháng nay, sĩ quan “đề lô” của pháo binh TQLC đi với tôi là Thiếu Úy Lê Hạ Huyền. Tôi nhớ rơ họ tên v́ ông T/U Huyền là bà con với tôi, tôi gọi ông bằng chú măc dù tuổi ông nhỏ hơn tôi. Ngày 24/03/1975, tôi nằm trên tuyến với 3 Trung Đội 1, 2 và 3. Cả 3 trung đội dàn hàng ngang nằm trên những đụn cát, chỉ có những bụi dương liễu cao khoảng nửa mét, không có chỗ ngụy trang. Xin nói thêm là trong giai đoạn lính tổng trừ bị TQLC “được” làm lính địa phương, đối phó với giặc có chiến xa th́ quân số của một đại đội TQLC trung b́nh là 160, bao gồm một tiểu đội chống chiến xa (TĐCCX). Mỗi quân nhân trong TĐCCX ngoài 1 cấp số đạn M16 c̣n mang 3 khẩu M72. Tức là mỗi đại đội TQLC có hơn 30 khẩu M72, một loại vũ khí diệt tank hữu hiệu vào thời điểm đó. Hôm ấy khoảng 10 giờ sáng mà trời vẫn c̣n sương mù dày đặc, tầm nh́n rất giới hạn, toán tiền đồn báo là có tiếng của chiến xa (CX) nhưng chưa xác định được loại nào v́ chưa thấy rơ. Mặt trời từ từ xuyên thủng màn sương mù dày đặc và chúng tôi đă thấy chiến xa địch xuất hiện, 1 rồi 2, rồi 3, rồi 4, rồi 5 chiếc T54 với bộ binh tùng thiết, dàn hàng ngang tiến thẳng về hướng pḥng thủ của đại đội tôi. Tôi gọi máy báo cho ĐĐT là Đại Úy Ngô Kim Anh biết t́nh h́nh và xin pháo binh yểm trợ. Tôi gọi pháo binh, cho tọa độ. Tràng đầu tiên hơi xa, tôi điều chỉnh gần lại 50, vẫn c̣n xa, gần lại 50 nữa th́ đạn đă nổ chụp ngay trên đội h́nh của địch. Địch bắt đầu dừng lại, lúng túng rồi hoảng hốt, địch chưa thấy ta. Yếu tố bí mật và bất ngờ đang nằm phía ta. Lệnh đại đội cho tôi chơi ống thổi lửa (M72) nhưng chưa cần thiết, một khi phóng M72 ra là phải chắc ăn, “cua phải bị nướng”, phải chờ chúng tới thật gần, nhất 9 nh́ bù, CX c̣n ở xa, không trúng mục tiêu mà vị trí của ḿnh bị lộ th́… với hỏa lực của T54, một khẩu đại bác 100 ly cộng với đại liên nó mà quạt lại th́ tiêu, TQLC sống hùng, sống mạnh nhưng chắc là không sống lâu. Cái hấp dẫn, hồi hộp, căng thẳng, b́nh tĩnh, sống chết trong đường tơ, mạng của hằng trăm lính trên tuyến đối diện với CX địch chính là tùy thuộc vào cấp chỉ huy lúc này đây. Lúc này đây, tôi không nghĩ ǵ đến cha mẹ tôi ở Huế, ngừơi yêu ở Saig̣n, em hậu phương ở Đà Lạt, những nụ cừoi duyên BTX sáng Chúa Nhật trên khu phố Ḥa B́nh, nhà Thủy Tạ v.v… mà là mạng sống của anh em tôi, của tôi trứơc họng súng 100 ly của T54. Tôi c̣n nhớ thời gian TĐ7 về “hấp” ở TTHL Đống Đa tại Phú Bài, trong 1 buổi huấn luyện và thực tập bắn M72, tôi được chỉ định bắn M72 cho quân nhân trong ĐĐ xem. Với cự ly 150 mét, trời nắng, gió nhẹ, tầm quan sát rơ, tôi đă bắn bay mục tiêu là 3 cái thùng phuy tượng trưng cho T54. Đó là kết quả của những ngày thao trường đổ mồ hôi, công sức huấn luyện của các Đ/Úy Tôn, Đ/U Nhồng, Đ/U Thái, Đ/U Dục … Xin thành thật cám ơn quư vị, nhờ các vị huấn luyện đă tạo cho tôi niềm tự tin trứơc họng súng CX T54, tôi sẽ chờ chúng tới thật gần, vào tầm hủy diệt 99% của súng chống CX M72 Chúng tôi quyết ém quân chờ chiến xa địch, lọt ăn, không lọt đền, phải tương đối chắc ăn mới khai hỏa. 200 mét, rồi 180 mét, rồi 150 mét, tôi ra hiệu cho TĐCCX chuẩn bị, sẵn sàng rút chốt an toàn của M72. T54 cùng bộ binh tùng thiết rơ dần dần, mặc quần áo kaki Nam Định, đầu đội nón cối, tất cả đều ngụy trang bằng những cành dương. Pháo binh vẫn rót vào vị trí địch, 1 tràng, 2 tràng, 3 tràng… Bùm! Bùm! Bùm! Khói lửa mịt mùng, 1 T54 đă bị trúng đạn pháo binh, 2 chiếc bị trúng M72, bộ binh tùng thiết bắt đầu rụng, địch nao núng rồi chuyển hướng chạy về phía rừng dương ẩn núp. Nhưng khốn khổ cho chúng là nơi đó có Trung Đội 2 pḥng thủ được tăng cường chiến xa M41. Tôi nh́n ra đàng sau th́ thấy đại đội trưởng đang bàn luận với Thiếu Tá Lê Quang Liễn, Tiểu Đoàn Phó, ông là người chỉ huy trực tiếp cánh B. Mỗi lần đụng trận, ông luôn có mặt tại tuyến đầu với tụi tôi. Đó là cách đánh giặc của VB/TQLC. Ta và địch gần như “sáp lá cà”, không dùng PB được nữa, TQLC và M41 trực diện với T54 và VC tùng thiết! Thiệt hại cả hai bên, chiến trường là thế, địch chết la liệt th́ anh em TQLC chúng tôi cũng thiệt hại không ít. Nhưng biết làm sao hơn, chúng tôi đă tận dụng những ǵ học hỏi được ở quân trường và kinh nghiệm chiến trường, đă tận lực sức người và khả năng chỉ huy để giảm thiểu thiệt hại cho đồng đội và quan trọng hơn, chúng tôi vẫn đứng, thuộc cấp thấy chúng tôi vẫn đứng, đó là điều trường Mẹ không hổ thẹn có những đứa con như thế, như thế. Đến chiều tối th́ được lệnh rút, mang theo thương binh tử sĩ, bỏ mặc vũ khí chiến lợi phẩm, súng ta c̣n mang không hết th́ mang theo “củi” của địch làm ǵ? Súng không đạn là củi. Mang theo “củi” để kể công để thượng cấp cho ADBT! Địch cũng án binh bất động. Đêm 24/3/1975, khoảng 12 giờ khuya, trên đường lui binh, chúng tôi lại bắn cháy 1 chiến xa, không phải T54 mà là M41 của ta. Không phải bắn lầm đơn vị bạn v́ tối trời mà cố t́nh bắn v́ M.41 đă hết xăng, phải dùng M72 để bắn cháy M41 sau khi đă thảy vào pháo tháp 2 trái lựu đạn. Dứt khoát không để lọt vào tay địch. Khoảng 2 giờ sáng, trên đường rút quân, Thiếu Tá Lê Quang Liễn gặp tôi, ông và tôi im lặng xiết tay nhau như chúc mừng nhau c̣n sống, rồi chụm đầu trên tấm bản đồ dưới ánh đèn pin trong M113 để xác định…, ông dặn tôi nhớ chuyển thương binh nặng ưu tiên đi trước, v́ có tín hiệu báo cho biết địch đang áp sát theo sau. Ngày 25/3/1975, khoảng 8 giờ sáng TĐ7/TQLC về tới cửa Thuận An, ở đây đă có rất đông dân chúng cùng các đơn vị bạn khác trong t́nh thế vô cùng hỗn độn mà chắc chắn có du kích và đề-lô PB địch trộn vào, sẽ vô cùng nguy hiểm khi có súng nổ hay làm mục tiêu cho pháo địch, v́ thế Th/Tá Phạm Cang cho lệnh tiếp tục di chuyển dọc theo bờ biển xuôi về phía Nam để bắt tay với đơn vị đi trước là TĐ4/TQLC của Th/Tá Đinh Long Thành K19. V́ TĐ7 là tiểu đoàn đoạn chiến, đi sau cùng trong hệ thống chỉ huy của Lữ Đoàn 147/TQLC được lệnh lui về Đà Nẵng theo lộ tŕnh dọc theo bờ biển Thuận An rồi vượt qua cửa Tư Hiền để vào Đà Nẵng, nếu không có tàu HQ vào bốc. Đến trưa, gặp TĐ4/TQLC, tiểu đoàn cho lệnh dừng quân, lập tuyến pḥng thủ ngay trên các đồi cát. Nh́n lại phía sau, chúng tôi thấy cả một đám đông, rất đông bám sát theo sau chúng tôi. Thật là cảm động và xót thương cho đồng bào tôi, nhưng “t́nh dân quân cá nước” trong hoàn cảnh này th́ thật nguy hiểm cho cả hai bên. Chúng tôi mở đường hướng dẫn cho họ tiến về phía trước, xuôi Nam, nhưng h́nh như đồng bào không muốn rời xa chúng tôi! Giữa băi cát bao la, trên trời ánh nắng chói chan rọi xuống, trước mặt là biển cả xanh ngắt, sau lưng là đầm Cầu Hai, đầm Hà Trung nước mênh mông, nhưng bi đông chúng tôi đă cạn khô, cổ chúng tôi đắng nghét v́ khói thuốc và khói súng, khát, khát và khát! Một chiếc trực thăng từ hướng Đà Nẵng bay ra và thả tự do xuống một số thùng gạo sấy để tiếp tế cho chúng tôi, gạo sấy lấy nước nào đổ vào để thành cơm? (Sau này trong bài viết Tháng Ba Buồn Hiu của Tiểu Cần, âm thoại viên của Tướng Tư Lệnh TQLC th́ trực thăng đó là C&C của Tư Lệnh, người mang gạo ra tiếp tế chính là chánh văn pḥng, NT Nguyễn Quang Đan K21 và Tiểu Cần, v́ xin nhưng không c̣n trực thăng để tiếp tế lương thực và nước uống cho quân sĩ! Trực thăng bay đi đâu hết rồi!) Đến chiều th́ gặp Trung Úy Hoàng Công Một K25 thuộc Tiểu Đoàn 5 TQLC điều quân, 2 thằng chỉ thăm hỏi nhau được vài câu và sau đó th́ ai làm phận sự người đó. Trung đội trưởng Cúc của ĐĐ H.C. Một đă hy sinh tại đây. Đến tối th́ VC đă tấn công TĐ4/TQLC, Thiếu Tá Nguyễn Trí Nam K22, Tiểu Đoàn Phó và Đại Úy Tô Thanh Chiêu, Đại Đội Trưởng Đại Đội 2 hy sinh.. Thiếu Tá Phạm Cang, TĐT/TĐ7 bị thương nhẹ do trúng miểng của cối 82 ly VC khi điều động M113 đánh chiếm mục tiêu. Em ruột TT Liễn cũng bị tử thương vào buổi chiều. Theo kế hoạch, 12 giờ khuya sẽ có tàu vào bốc, nhưng chờ măi chẳng thấy. Ngày 26/03/1975, nh́n ra khơi thấy nhiều tàu của Hải Quân, lớn có nhỏ có. Đến trưa th́ có 1 chiếc tàu há mồm vào để bốc thương binh và BCH/LĐ. Một chiếc thứ 2 vào, nhưng lần này th́ không được may mắn như chiếc trước, địch đă dùng hỏa tiễn tầm nhiệt AT3 bắn vào ngay ống khói của tàu và tàu coi như bất khiển dụng. Một số chết và bị thương ngay trên tàu. Kể từ giờ phút này, Thiếu Tá Phạm Cang, TĐT/TĐ7 nắm quyền Xử Lư Thường Vụ Lữ Đoàn Trưởng LĐ 147 TQLC. Theo kế hoạch của ông th́ TĐ7 bung rộng ra, sẽ là nốt chặn cuối cùng, làm an toàn băi bốc cho các TĐ bạn và TĐ7 sẽ là đơn vị cuối cùng lên tàu sau TĐ4, TĐ3, TĐ5 TQLC. Rất tiếc là chẳng có chiếc tàu nào vào bốc kể từ đó mặc dù đến chiều vẫn có lệnh là 8 giờ tối sẽ có tàu vào, rồi đến tối lại có lệnh là 12 giờ khuya sẽ có tàu vào…và chẳng bao giờ có tàu HQ vào đón chúng tôi. Đứng trên cát, tứ bề nước mênh mông, không nước, không đạn, nhưng chúng tôi c̣n có cấp chỉ huy và đồng đội. Th/Tá Phạm Cang, TĐT/TĐ7 kiêm xử lư thường vụ chỉ huy LĐ147/TQLC khi đó đă bắt liên lạc được với ngừơi bạn cùng K20 chỉ huy đoàn tàu LCM sẵn sàng bốc TĐ7 vào Đà Nẵng, nhưng Th/Tá Cang đă từ chối, không thể chỉ đi có TĐ7, mà phải ở lại cùng toàn thể Lữ Đoàn, trong đó có TĐ4 của NT Đinh Long Thành K19, TĐ5 của NT Phạm Văn Tiền K20, TĐ3 của NT Nguyễn Văn Sử K20. Tôi xin trích đoạn bài viết của Th/Tá Phạm Cang: _ “10 giờ sáng ngày 25/3/75, trên tần số không lục tôi nhận ra tiếng người bạn cùng khóa, Thiếu Tá Trần Văn Thao, anh chỉ huy đoàn tàu Quân Vận (LCM) từ Đà Nẵng ra Thuận An để đón BĐQ, nhưng không thể nào liên lạc được. Anh hỏi tôi có thấy anh em Mũ Nâu không. Nh́n quanh tôi chỉ thấy 5, 3 anh. Tôi cho Thao biết. Anh nói: “Tôi sẽ đưa các bạn vào Đà Nẵng, hăy chuẩn bị và đánh dấu băi bốc.”. Rất tiếc tôi không thể chỉ đưa TĐ7 đi, v́ c̣n trách nhiệm với các tiểu đoàn bạn. Tôi cám ơn Thao”. Một tấm gương sáng khác của cấp chỉ huy mà tôi cần nhắc đến: Th/Tá Lê Quang Liễn, tải thương xác ngừơi em ruột lên tàu xong rồi vị Tiểu Đoàn Phó TĐ7 của chúng tôi nhẩy xuống biển, bơi trở lại vào bờ để cùng sống chết với chúng tôi. Đêm 26 rạng ngày 27 tháng 3 năm 1975, một đêm trăng sáng vằng vặc, biển động, nh́n ra xa vẫn thấy đèn của Hải Quân lấp lánh ngoài khơi… và chúng tôi “chôn súng”! Những người lính TQLC đă bắn cháy chiến xa T54 của địch, đă bị hỏa tiễn tầm nhiệt AT3 của địch bắn cháy tàu của họ. Họ đă nhai những hạt gạo sấy sau cùng vào ngày hôm qua, đă bắn những viên đạn cuối cùng vào ngày hôm nay. Và khi không c̣n ǵ để chiến đấu, họ đă tự đào hố để chôn súng, bản đồ, địa bàn, thẻ bài, bằng lái xe, bằng dù, thẻ quân nhân…và đă cắn răng chôn ngay cả cái nhẫn Vơ Bị, là vật bất ly thân của những sĩ quan xuất thân từ Trường Vơ BịQuốcGiaViệtNam . Những người lính Tổng Trừ Bị thuộc ĐĐ2/TĐ7/Lữ Đoàn 147 Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam Cộng Ḥa đă chiến đấu và bị bắt làm tù binh chiến tranh (POW: Prisoner Of War) như vậy đó. Bất cứ ai, đừng bao giờ bảo Lữ Đoàn 147/TQLC là những hàng binh, nguy hiểm vô cùng, hăy cẩn thận trong lời nói, thưa các ông, xin nhắc lại: NGUY HIỂM VÔ CÙNG!!! Riêng cá nhân tôi, 1 người lính VNCH, 1 kẻ chiến bại, tôi chưa bao giờ oán trách cấp chỉ huy của tôi dù là cấp Tiểu Đoàn Trưởng hay vị Tổng Tư Lệnh Tối Cao của Quân Đội. Cái nh́n của tôi chỉ là ở cấp chiến thuật, làm sao biết được cấp chiến lược… Bao nhiêu đắng cay, tủi nhục… đổ lên đầu kẻ chiến bại. Nếu sau khi mất QĐI, rồi QĐII, Hoa Kỳ giữ đúng cam kết với đồng minh VNCH, lại nhảy vào cuộc chiến, như đă xảy ra tại Triều Tiên năm 1953, nếu kết thúc cuộc chiến mà VNCH là kẻ chiến thắng, chúng ta sẽ nói ǵ? Nói ngược lại chăng? Hỏi tức là trả lời. Chúng ta hăy suy nghĩ 1 cách công bằng. * Một người bạn đă hỏi tôi sẽ làm ǵ nếu lịch sử được lập lại hay nếu có kiếp sau? Vâng, câu trả lời của tôi là tôi sẽ lại t́nh nguyện thi vào Trường Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam, rồi khi ra trường lại sẽ t́nh nguyện gia nhập lực lượng Tổng Trừ Bị của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa: binh chủng Thủy Quân Lục Chiến. Và nếu được chọn lựa th́ tôi xin được chiến đấu dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Tư Lệnh Phó TQLC Nguyễn Thành Trí, Trung Tá Lữ Đoàn Trưởng TQLC Nguyễn Xuân Phúc, Trung Tá Lữ Đoàn Phó Đỗ Hữu Tùng, Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Phạm Cang, Thiếu Tá Tiểu Đoàn Phó Lê Quang Liễn v.v… Đó là những cấp chỉ huy mà tôi rất ngưỡng mộ và kính phục, trên chiến trường cũng như trong “tù trường”… Người trong cuộc Mũ Xanh Lê Khắc Phước ĐĐ2/TĐ7/LĐ147/TQLC |
All times are GMT. The time now is 09:31. |
VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2005 - 2025
User Alert System provided by
Advanced User Tagging (Pro) -
vBulletin Mods & Addons Copyright © 2025 DragonByte Technologies Ltd.