Chỉ trong chưa đầy 1 tuần sau khi ḥa mạng trả sau số điện thoại của cô gái này đă thực hiện vô số các cuộc gọi ra quốc tế. Theo tính toán của nhà mạng số tiền mà cô gái phải trả lên tới 1,1 tỷ đồng. Hôm nay vụ việc đă chính thức được ṭa xét xử lại và cô gái đă có kết quả không như mong đợi.Chiều ngày 14/9, TAND TP.HCM chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn - Công ty Bưu chính viễn thông Chi nhánh TP.HCM (thuộc Tập đoàn bưu chính viễn thông Việt Nam - VNPT), buộc bị đơn Sỹ Truyền Hoàng Ngân (26 tuổi) trả hơn 1,1 tỷ đồng tiền cước.
Theo nội dung vụ án, tháng 7/2013, chị Ngân kư hợp đồng cung cấp và sử dụng dịch vụ bưu chính viễn thông với chi nhánh của Viễn thông TP.HCM. Sau đó, nhà mạng cung cấp cho Ngân sim điện thoại thuê bao trả sau. Ngoài việc gọi trong nước, sim có thể gọi chuyển vùng quốc tế không giới hạn bởi vị trí của máy gọi, vị trí máy nhận cuộc gọi, loại máy…với yêu cầu Ngân phải kư quỹ 5 triệu đồng, khi nào không sử dụng dịch vụ này nữa sẽ được nhận lại tiền.
Tuy nhiên, chỉ sau 5 ngày ḥa mạng, thuê bao của Ngân đă gọi và sử dụng dịch vụ chuyển vùng quốc tế làm phát sinh tiền cước phí lên tới gần 1,1 tỷ đồng. Thấy bất thường, nhà mạng đă thông báo và yêu cầu cô thanh toán. Không đồng ư trả v́ mức phí quá cao, Ngân bị VNPT khởi kiện ra ṭa.
Tại phiên sơ thẩm tháng 9/2014, Ngân thừa nhận đă cho người quen (quốc tịch Pakistan) sử dụng sim điện thoại này nhưng hiện không thể liên lạc được với người đó. Cô tố cáo sự việc với Công an TP.HCM nhưng hiện chưa nhận được phản hồi.
Sau đó, TAND quận 11 đă bác yêu cầu khởi kiện của VNPT. Theo HĐXX, trong việc giao kết hợp đồng VNPT là bên mạnh thế, hiểu biết hơn khách hàng về những vấn đề liên quan đến dịch vụ viễn thông. Phía nguyên đơn cũng là bên soạn thảo hợp đồng, nên việc giải thích nội dung thỏa thuận phải theo hướng có lợi cho khách hàng.
Không đồng t́nh với phán quyết này, nguyên đơn đă làm đơn kháng cáo.
Tại phiên phúc thẩm, HĐXX xét thấy, hợp đồng cung cấp sử dụng dịch vụ viễn thông được kư giữa VNPT và Ngân là có hiệu lực pháp luật. Hai bên đều công nhận, ngoài các nội dung in sẵn c̣n có nội dung "mở dịch vụ gọi quốc tế và chuyển vùng quốc tế".HĐXX cũng cho rằng, kết quả giám định các cuộc gọi được thực hiện đúng pháp luật, số thuê bao của Ngân đă đăng kư dịch vụ chuyển tiếp cuộc gọi và đă nhận được nhiều cuộc gọi trong cùng một thời gian, tổng đài đă chuyển tiếp toàn bộ các cuộc gọi đến tổng đài hoặc thuê bao khác và ghi nhận toàn bộ hơn 4.300 cuộc gọi, là chính xác.
Cấp sơ thẩm không làm rơ 2 loại dịch vụ gọi quốc tế và chuyển vùng quốc tế là khác nhau. Cước phát sinh không phải là từ dịch vụ chuyển vùng quốc tế mà là dịch vụ gọi quốc tế. Thời điểm kư hợp đồng, dịch vụ chuyển vùng quốc tế được mở đồng thời với dịch vụ gọi quốc tế, không phải đăng kư.
Ngay cả trong trường hợp Ngân không đăng kư chuyển vùng quốc tế th́ vẫn phát sinh cước. Việc kư quỹ 5 triệu đồng là để thực hiện dịch vụ chuyển vùng quốc tế.
Án sơ thẩm cho rằng số tiền này dùng để kư quỹ gọi chuyển vùng quốc tế là không có cơ sở. Như vậy, khi đăng kư dịch vụ quốc tế người sử dụng phải biết và chịu trách nhiệm. Đây là ư định của Ngân nên việc xác định công ty viễn thông thiếu trách nhiệm trong việc cung cấp thông tin là không có cơ sở.
V́ vậy, HĐXX đă chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, buộc chị Ngân phải thanh toán toàn bộ số tiền cước phát sinh.
|