VBF-Một sinh viên Việt đă tự sát cách đây 9 năm tại trường ĐH danh giá ở Mỹ. Cậu đă tự tử từ tầng 6 của ṭa nhà trường. Nhiều người thương xót cậu và không biết lư do ǵ khiến cậu phải làm vậy.
Năm 2009, Nguyễn Duy Hân – một sinh viên gốc Việt đang là nghiên cứu sinh ở Viện Công nghệ Massachusetts (MIT), một trong những trường đại học hàng đầu thế giới – đă gieo ḿnh tự tử tầng 6 một ṭa nhà của trường.
Khuôn viên Viện Công nghệ Massachusetts
Năm 2011, gia đ́nh anh khởi kiện nhà trường, 2 giáo sư và một phó trưởng khoa v́ đă không đưa ra những biện pháp đầy đủ để giúp sinh viên mặc dù biết anh đang gặp vấn đề về sức khỏe tâm thần.
Hôm 7/5, ṭa án cao nhất tiểu bang Massachusetts đă tuyên bố, MIT không phải chịu trách nhiệm về vụ tự tử này.
Mặc dù vậy, tuyên bố của ṭa án cũng nói rằng, có thể trong một số trường hợp, các trường đại học có thể phải chịu một số trách nhiệm bảo vệ sinh viên của ḿnh, ví dụ như khi sinh viên đó đă nói rơ kế hoạch tự tử của ḿnh.
Tuy nhiên, các trường đại học “không phải chịu trách nhiệm theo dơi và kiểm soát tất cả khía cạnh trong cuộc sống của sinh viên” – ṭa án viết.
Nguyễn Duy Hân, 25 tuổi, vào thời điểm tự tử đang là nghiên cứu sinh tiến sĩ ở Trường Quản lư Sloan của MIT.
Trong hồ sơ gửi lên ṭa án, các luật sư của gia đ́nh anh cho rằng MIT, 2 giáo sư bị kiện và vị trưởng khoa phụ trách đời sống sinh viên phải có trách nhiệm pháp lư trong việc quan tâm tới trường hợp của anh và ngăn chặn vụ tự tử này. Gia đ́nh cũng cho rằng, một trong 2 giáo sư bị kiện – là Birger Wernerfelt – là nguyên nhân gây ra vụ tự tử. Họ nói, anh Hân đă nhảy lầu ngay sau khi giáo sư này chỉ trích anh gay gắt.
Các luật sư của gia đ́nh cũng cho rằng, MIT đă biết rất rơ về trạng thái tâm thần mong manh của con trai họ, rằng giáo sư Wernerfelt thậm chí đang có những giải pháp giúp giảm bớt sự căng thẳng của Hân, bởi v́ ông không muốn “máu đổ trong trường”.
Các luật sư của gia đ́nh cũng cho rằng các dịch vụ hỗ trợ sinh viên của MIT là chưa đầy đủ, trong khi ở một số trường khác – đặc biệt là ĐH Illinois – từ lâu đă đưa ra các chương tŕnh nhằm giảm tỷ lệ sinh viên tự tử và tỷ lệ này của MIT hiện vẫn c̣n rất cao.
Nguyễn Duy Hân - sinh viên tự tử ở MIT năm 2009
Trong khi đó, MIT lập luận, anh Nguyễn Duy Hân đă gặp những vấn đề về sức khỏe tâm thần từ rất lâu trước khi đến MIT. Anh từng cố gắng tự tử 2 lần trước đó, và khi học tập, nghiên cứu ở MIT, anh đă nhận được sự chăm sóc của 9 chuyên gia sức khỏe tâm thần khác nhau. Không ai trong số họ có liên hệ với trường, và cũng không ai trong số họ cho rằng anh có nguy cơ tự tử.
MIT từng nói rằng, nếu ṭa án đứng về phía gia đ́nh, nó sẽ làm “thay đổi mối quan hệ giữa giảng viên và sinh viên”.
Trong một văn bản thể hiện sự ủng hộ với MIT, 18 trường đại học khác ở Massachusetts, trong đó có Harvard, Amherst College, Smith College và ĐH Boston, đă cảnh báo rằng, việc yêu cầu các giảng viên không có chuyên môn về y học phải ngăn ngừa những vụ tự tử có thể gây ra tác động tai hại.
Các giáo sư – trong nỗ lực tránh phải chịu trách nhiệm – cho rằng, việc giám sát sinh viên có thể đi quá giới hạn, khiến các em không dám nói với bất cứ ai về vấn đề của ḿnh.
Trong phán quyết hôm 7/5 của ṭa án cũng lưu ư rằng, nhà trường có thể nới lỏng sự quan tâm của ḿnh khi anh Hân liên tục từ chối sự giúp đỡ. “Trong những trường hợp này, ở góc độ luật pháp, các quyền riêng tư, quyền tự chủ của một sinh viên 25 tuổi cần phải được tôn trọng”.
Ông Jeffrey Beeler, một luật sư của gia đ́nh, cho biết, họ rất thất vọng. Tuy nhiên, việc ṭa án cho rằng các trường đại học nên chịu trách nhiệm trong một số trường hợp nhất định là một tín hiệu đáng mừng, “có thể giúp cứu mạng các sinh viên khác trong tương lai”.
Về phía MIT, trường vẫn khẳng định rằng đă cung cấp “một mạng lưới mạnh mẽ” các dịch vụ hỗ trợ sinh viên, bao gồm cả tư vấn sức khỏe tâm thần toàn diện, đồng thời liên tục cố gắng nâng cao hiệu quả của các dịch vụ này.
MIT là trường đại học có tỷ lệ sinh viên tư tử cao bất thường trong bối cảnh chung trên toàn nước Mỹ. Ước tính khoảng 1.100 sinh viên đại học Mỹ tự tử mỗi năm – theo số liệu của ṭa án. Các trường đại học cho rằng, việc ngăn ngừa những vụ tự tử như thế này ngày càng trở nên phức tạp, một phần bởi v́ sự kỳ vọng lớn của sinh viên về quyền riêng tư và tự chủ.
Nguyễn Thảo(Theo The New York Times)