VBF-Dù chiến tranh đă qua đi từ rất lâu thế nhưng cho tới nay chính quyền cũ lại được VN nhắc tới v́ có liên quan tới tranh chấp biển đảo với TQ. Qua đó VN đă không gọi VNCH là ngụy quân ngụy quyền và công nhân đó là Quốc gia Việt Nam là một thực thể chính trị mà Hiệp định Genève 1954 có nhiều nước trong đó Trung Quốc và Việt Nam dân chủ cộng ḥa đă kư, công nhận"
Như tôi đă nhiều lần phát biểu trong đó có hội thảo xây dựng bộ lịch sử trên, rằng để đấu tranh bảo vệ chủ quyền chính đáng của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa mà pháp lư quốc tế hồi cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, khi Trung Quốc bắt đầu tranh chấp chủ quyền năm 1909 cho Paracels (mà Trung Quốc gọi là Tây Sa là đất vô chủ - res -nullius) th́ sự chiếm hữu phải mang tính thật sự, nhà nước, liên tục và ḥa b́nh.
Từ năm 1954 - 1975 chỉ có chính quyền ở miền Nam Việt Nam mới có quyền quản lư Hoàng Sa và Trường Sa v́ hai quần đảo này ở vị trí dưới vĩ tuyến 17, cũng đă từng được rất nhiều nước thừa nhận, nên chính quyền Việt Nam cộng ḥa phải được chính thức thừa nhận mới bảo đảm tính pháp lư quốc tế liên tục
TS Nguyễn Nhă
Nhân việc bộ Lịch sử Việt Nam không dùng từ “ngụy quyền Sài G̣n” để chỉ chính thể Việt Nam cộng ḥa trước 1975, TS sử học Nguyễn Nhă cho rằng việc thừa nhận này có lợi trước nhất cho công cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam.
Bên cạnh đó, ông Nhă c̣n cho rằng: “Việt Nam cộng ḥa và trước đó là Quốc gia Việt Nam là một thực thể chính trị mà Hiệp định Genève 1954 có nhiều nước trong đó Trung Quốc và Việt Nam dân chủ cộng ḥa đă kư, công nhận chính quyền hợp pháp quản lư lănh thổ kể cả biển phía Nam vĩ tuyến 17 của Việt Nam khi chưa thống nhất đất nước Việt Nam.
Về pháp lư quốc tế cũng như về mặt lịch sử rất hiển nhiên không thể chối căi. Có thể khi c̣n đấu tranh chính trị v́ lợi ích chính trị th́ không công nhận nhau cũng là chuyện thường t́nh.
Song chính trị th́ có thể thay đổi, nhất là khi đất nước đă được thống nhất và đang có nhu cầu thống nhất ḷng người, đoàn kết dân tộc để phát triển hùng cường và đấu tranh chống các nguy cơ từ nguy cơ trở thành thuộc quốc hay nguy cơ tụt hậu”.
Trong cái nh́n triển vọng về việc thừa nhận chính thể Việt Nam cộng ḥa, ông Nhă cũng lưu ư rằng “Hiện nay có hơn 4 triệu Việt kiều trong đó các thành phần trong chính quyền Việt Nam cộng ḥa cũng rất quan trọng. Công nhận Việt Nam cộng ḥa sẽ tạo sự đoàn kết, ḥa hợp ḥa giải dân tộc, như ư nguyện lúc sinh thời của Thủ tướng Vơ Văn Kiệt”.
Không chỉ thế, theo ông Nhă, “... Thừa nhận Việt Nam cộng ḥa, Việt Nam chúng ta hiện nay có thể chính thức thừa hưởng gia tài rất quư báu về văn hóa giáo dục, kinh tế với cơ chế mà gần như cả thế giới hiện nay đang thực hiện. Đặc biệt như tôi đă phát biểu trong Đại hội kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Khoa học lịch sử Việt Nam rằng giới sử học ở miền Nam trước đây không bị ảnh hưởng về chính trị, hay quan điểm. Bất cứ nước nào tôn trọng giới học thuật, khoa học, nghiên cứu, nước ấy sẽ phát triển và ngược lại rất khó phát triển”.
Việc từ bỏ cách gọi "ngụy quân", "ngụy quyền" và công nhận Việt Nam cộng ḥa như một chính quyền độc lập là một bước tiến quan trọng trong việc hàn gắn những vết thương của người Việt sau chiến tranh.
Mặt khác điều này có những tác động tích cực đối với việc giải quyết tranh chấp trên Biển Đông, cụ thể là hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa bằng công pháp quốc tế.
TS Lê Trung Tĩnh
Tác động tích cực với việc giải quyết tranh chấp trên Biển Đông
Ngày 18-8, Viện hàn lâm Khoa học xă hội Việt Nam giới thiệu, phát hành bộ Lịch sử Việt Nam bao quát nền lịch sử nước ta từ khởi thủy đến năm 2000 do Viện Sử học Việt Nam biên soạn.
Một trong nhiều điểm mới của bộ sách lịch sử quan trọng này là việc đề cập đến sự tồn tại của chính quyền Việt Nam cộng ḥa như một thực thể chính trị độc lập tại miền Nam Việt Nam.
Như lời trả lời phỏng vấn báo chí, PGS.TS Trần Đức Cường, nguyên viện trưởng Viện Sử học, chủ tịch Hội Khoa học lịch sử VN, tổng chủ biên bộ sách Lịch sử Việt Nam, đă nói: "Trước đây, khi nhắc đến chính quyền Việt Nam cộng ḥa, mọi người vẫn hay gọi là ngụy quân, ngụy quyền. Nhưng chúng tôi từ bỏ không gọi theo cách đó mà gọi là chính quyền Sài G̣n, quân đội Sài G̣n".
Nhiều tác giả, đặc biệt là Quỹ Nghiên cứu Biển Đông qua các bài viết của TS Dương Danh Huy, đă đi sâu về mối quan hệ giữa sự công nhận một hay hai quốc gia trong giai đoạn chiến tranh 1954-1975 và lập luận pháp lư bảo vệ chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam.
Các nghiên cứu này đă so sánh các cách thức, quan điểm khác nhau và đi đến kết luận rằng việc công nhận hai quốc gia Việt Nam trong giai đoạn 1954-1975 có lợi trong việc tranh biện pháp lư cho chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa trước Trung Quốc.
Và đó cũng là quan điểm có thể chấp nhận về mặt chính trị hiện nay, so với việc chỉ công nhận một quốc gia tại miền Bắc hay tại miền Nam.
Nhận định Việt Nam dân chủ cộng ḥa và Việt Nam cộng ḥa là hai quốc gia cũng là điều được chấp nhận dưới góc độ luật pháp quốc tế theo nghiên cứu của nhiều luật gia quốc tế nổi tiếng.
Giáo sư James Crawford, giáo sư hàng đầu về công pháp quốc tế và là một thẩm phán tại Ṭa án Công lư quốc tế, trong tác phẩm The Creation of States in International Law, đă cho rằng Việt Nam dân chủ cộng ḥa và Việt Nam cộng ḥa là hai quốc gia.
Theo ông, việc Hiệp định Genève 1954 thiết lập hai vùng tập kết quân sự phải được xem như sự thiết lập hai quốc gia. Trên phương diện luật pháp cũng như trên thực tế, lănh thổ của mỗi quốc gia trên không phải là toàn bộ Việt Nam.
Ngoài ra sau này trong Hiệp định Paris 1973, Việt Nam dân chủ cộng ḥa và Việt Nam cộng ḥa cũng được xem như hai thể chế trong việc sử dụng quân sự, tự khẳng định đối nội và đối ngoại, đáp ứng được các điều kiện có chính phủ và khả năng có quan hệ với các chính phủ khác.
Thật ra việc công nhận Việt Nam cộng ḥa như một chính thể quan trọng trong việc ǵn giữ chủ quyền của Hoàng Sa, Trường Sa đă được lănh đạo Việt Nam đề cập trong các phát biểu quan trọng.
Nguyên thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong phát biểu trước Quốc hội ngày 25-11-2011 đă lặp lại không dưới ba lần từ "Việt Nam cộng ḥa" và khẳng định: "Đến năm 1974 cũng Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa trong sự quản lư hiện tại của chính quyền Sài G̣n, tức là chính quyền Việt Nam cộng ḥa. Chính quyền Sài G̣n, chính quyền Việt Nam cộng ḥa đă lên tiếng phản đối, lên án việc làm này và đề nghị Liên Hiệp Quốc can thiệp".
"Năm 1975 giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc th́ hải quân chúng ta đă tiếp quản năm ḥn đảo tại quần đảo Trường Sa, đó là đảo Trường Sa, đảo Song Tử Tây, đảo Sinh Tồn, đảo Nam Yết và đảo Sơn Ca, năm đảo này do quân đội của chính quyền Sài G̣n, chính quyền Việt Nam cộng ḥa đang quản lư chúng ta tiếp quản".
Cũng cần nhắc lại là ngày 19 và 20-1-1974, trong trận hải chiến Hoàng Sa với Trung Quốc, 74 binh sĩ Việt Nam cộng ḥa đă ngă xuống để bảo vệ lănh thổ của Việt Nam.
Một chính quyền và binh sĩ của chính quyền đă làm tất cả và hi sinh xương máu để bảo vệ đất nước không bao giờ là một ngụy quyền, ngụy quân.
Đó đơn giản là những người con của nước Việt, cũng như Hoàng Sa, Trường Sa là một phần lănh thổ của Việt Nam cùng với Hà Nội, Huế, Sài G̣n.
Ư nghĩa của điều đó rất rơ và trường tồn đối với dân tộc Việt Nam, một dân tộc đă từng đấu tranh 1.000 năm để có một lănh thổ, và 1.000 năm để giữ ǵn lănh thổ.
TS Lê Trung Tĩnh (Quỹ Nghiên cứu Biển Đông)
Tiền đề thống nhất nhân tâm
Chiến tranh đă chấm dứt từ năm 1975. Đă đến lúc dân tộc phải tiến hành công cuộc ḥa giải. Thống nhất đất nước phải là tiền đề cho thống nhất nhân tâm, thống nhất tinh thần dân tộc...
Có như thế dân tộc mới mạnh, mới đoàn kết để chống xâm lược, để giữ ǵn giang sơn, đất trời và biển.
Ai cũng vui mừng v́ đă đến lúc ta phải gọi cho đúng tên các thực thể dân tộc trong quá khứ.
Việt Nam cộng ḥa là một thực thể lịch sử. Thừa nhận chính thể Việt Nam cộng ḥa như nó đă tồn tại ta sẽ làm giàu có thêm cho dân tộc v́ đă có một nền giáo dục, một nền văn học, pháp chế, kinh tế... mà chúng ta cần nghiên cứu để thừa kế những giá trị và gạt bỏ những khuyết điểm, những yếu kém...
Và trên hết là ḥa giải dân tộc, tiếp thêm sức mạnh cho dân tộc trong cuộc cạnh tranh và sống c̣n trong một thế giới c̣n nhiều thách thức.
Nhà nghiên cứu Trần Viết Ngạc
|
|