Log in

View Full Version : Căn bệnh khiến trẻ có thể tử vong sau cơn sốt


Romano
07-11-2022, 05:35
Nếu sau 3-4 ngày mắc bệnh, các triệu chứng không thuyên giảm, trẻ sẽ trở nặng, có thể bị co giật, rơi vào hôn mê. Các ca nặng sẽ tử vong vào ngày thứ 7.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), virus viêm năo Nhật Bản (JEV) là nguyên nhân hàng đầu gây ra các bệnh viêm năo virus ở châu Á. Thủ phạm là loại virus flavivirus, do muỗi truyền, cùng chi với virus gây sốt xuất huyết, sốt vàng da.

Viêm năo Nhật Bản là bệnh nhiễm khuẩn thần kinh, có thể dẫn đến t́nh trạng tổn thương năo vĩnh viễn, tỷ lệ tử vong rất cao.

Tỷ lệ tử vong lên tới 30%
Theo WHO, ca mắc viêm năo Nhật Bản đầu tiên được ghi nhận vào năm 1871. Tên của bệnh đặt theo nơi đầu tiên phát hiện người mắc.

Tỷ lệ mắc viêm năo Nhật Bản hàng năm dao động từ <1/100.000 đến >10/100.000 dân hoặc cao hơn trong các đợt bùng phát. Một số tài liệu ước tính mỗi năm toàn cầu có gần 68.000 ca mắc lâm sàng, khoảng 13.600-20.400 người tử vong.

Viêm năo Nhật Bản chủ yếu ảnh hưởng đến trẻ em. Hầu hết người lớn ở các quốc gia lưu hành bệnh có khả năng miễn dịch tự nhiên sau khi bị nhiễm virus thời thơ ấu. Dù vậy, vẫn có nhiều trường hợp người lớn mắc bệnh này.

Hầu hết ca nhiễm viêm năo Nhật Bản đều nhẹ với triệu chứng sốt, nhức đầu hoặc không có triệu chứng. Tuy nhiên, 1/250 ca mắc có thể dẫn tới bệnh lâm sàng nghiêm trọng.Thời gian ủ bệnh là 4-14 ngày, trung b́nh là một tuần. Ở trẻ em, các triệu chứng ban đầu nổi trội thường là đau bụng, nôn.

Ngay trong 1-2 ngày đầu, người bệnh đă xuất hiện cứng gáy, tăng trương lực cơ, rối loạn sự vận động nhăn cầu. Về tâm thần kinh có thể xuất hiện lú lẫn hoặc mất ư thức. Những ngày đầu phản xạ gân xương tăng, sung huyết giăn mạch rơ. Ở một số trẻ nhỏ tuổi, ngoài sốt cao có thể thấy đi lỏng, đau bụng, nôn giống như nhiễm khuẩn - nhiễm độc ăn uống.

Khi bệnh trở nặng (giai đoạn toàn phát), trẻ sẽ bị sốt cao (39-40 độ C), nhức đầu, cứng cổ, mất phương hướng, hôn mê, co giật, liệt co cứng và cuối cùng là tử vong.

Do tổn thương các tế bào thần kinh ở năo, bệnh nhân rơi vào trạng thái hôn mê sâu với sự rối loạn các chức năng sống. Thường từ ngày thứ 3-4 của bệnh các triệu chứng của thời kỳ khởi phát không giảm mà lại tăng lên. Từ mê sảng kích thích, dần dần bệnh nhân hôn mê sâu dần.

Các triệu chứng rối loạn thần kinh thực vật cũng tăng lên với biểu hiện vă mồ hôi nhiều, da lúc đỏ, lúc tái, rối loạn nhịp thở. Đến ngày thứ 6-7 của bệnh xuất hiện các triệu chứng tổn thương năo nói chung và tổn thương thần kinh khu trú. Bệnh nhân mê sảng, ảo giác, kích động co quắp. Trong trường hợp nặng có thể thấy co giật và cơ chi hoặc bại, liệt cứng.

Bệnh nhân rối loạn cảm nhận màu sắc và ánh sáng, thị trường bị thu hẹp. Bệnh nhân thường tử vong trong ṿng 7 ngày đầu. Những bệnh nhân vượt qua được thời kỳ này th́ tiên lượng tốt hơn. Tỷ lệ tử vong có thể lên tới 30% ở những người có các triệu chứng.

Trong số những người sống sót, 20-30% bị di chứng vĩnh viễn về trí tuệ, hành vi hoặc thần kinh như tê liệt, co giật tái phát hoặc mất khả năng nói. Tử vong ở giai đoạn sau chủ yếu do các biến chứng đặc biệt như viêm phổi, suy kiệt...

Quá tŕnh lây truyền
24 quốc gia trong khu vực Đông Nam Á và Tây Thái B́nh Dương của WHO (khoảng 3 tỷ dân) có nguy cơ lây truyền viêm năo Nhật Bản. Virus được truyền sang người qua vết cắn của muỗi Culex tritaeniorhynchus.

Đây là loại thích sống và đẻ trứng ở vùng nước trong, thường được phát hiện quanh các ruộng lúa và mương rănh. Muỗi Culex tritaeniorhynchus có màu nâu nhạt và có tập tục hoạt động nhiều vào giờ chập choạng tối xung quanh và bên trong nhà của các hộ gia đ́nh. Bệnh chủ yếu được phát hiện ở các vùng nông thôn và ngoại ô.

Ở hầu hết khu vực ôn đới của châu Á, viêm năo Nhật Bản lây truyền chủ yếu vào mùa nóng, các vụ dịch lớn có thể xảy ra trong thời điểm này. Ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, dịch viêm năo Nhật Bản bùng phát quanh năm, nhưng mạnh nhất vào mùa mưa, trước kỳ thu hoạch lúa.

Tiêm vaccine pḥng bệnh là cách tốt nhất
Hiện nay, không có thuốc điều trị kháng virus cho bệnh nhân bị viêm năo Nhật Bản. Các biện pháp điều trị chỉ mang tính chất hỗ trợ để làm giảm các triệu chứng và ổn định cho bệnh nhân.

Cách duy nhất và tốt nhất để giảm hậu quả của viêm năo Nhật Bản đó là tiêm vaccine, nhất là ở khu vực bệnh lưu hành mạnh.

Hiện nay, 4 loại vaccine pḥng viêm năo Nhật Bản thường được sử dụng là vaccine bất hoạt có nguồn gốc từ năo chuột, vaccine bất hoạt có nguồn gốc từ tế bào Vero, vaccine sống giảm độc lực và vaccine tái tổ hợp sống (chimeric).

Trong những năm qua, vaccine sống giảm độc lực SA14-14-2 được sản xuất tại Trung Quốc đă trở thành loại được sử dụng rộng răi nhất và được WHO kiểm định chất lượng vào tháng 10/2013.

Vaccine bất hoạt dựa trên nuôi cấy tế bào và vaccine tái tổ hợp sống cũng đă được cấp phép và đạt tiêu chuẩn WHO.

Các chuyên gia khuyến cáo những người sống trong vùng có lưu hành bệnh viêm năo Nhật Bản cần chủ động tiêm pḥng bệnh, cần tiêm trước mùa bệnh khoảng một tháng v́ kháng thể bảo vệ bước đầu chỉ được tạo thành khoảng 3 tuần sau khi tiêm.

Khi tiêm pḥng viêm năo Nhật Bản, tại chỗ tiêm có thể bị đau, sưng, đỏ (chiếm 5-10%). Một số có thể có phản ứng toàn thân: sốt nhẹ, đau đầu, mệt mỏi. Các phản ứng phụ nêu trên xuất hiện khoảng vài giờ sau khi tiêm và thường tự hết sau 1-2 ngày. Phản ứng phụ thường gặp ở mũi tiêm thứ 2 hoặc thứ 3 hơn là ở mũi tiêm thứ 1. Sau khi tiêm có các biểu hiện khác thường cần được đưa ngay tới cơ sở y tế gần nhất để xử trí cấp cứu.